Bạn đang xem: Phân tích cảm hứng về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm (hay nhất) tại thpttranhungdao.edu.vn Để tìm hiểu sâu hơn về trị giá tác phẩm Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, mời các em tham khảo một số bài văn mẫu Phân tích cảm hứng về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Đọc tiếp
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Làm Ruộng (Chốn Quê) Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua, Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa. Phần thuế quan Tây, phần trả nợ, Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Nhân hứng cũng vừa toan đựng bút, Nghĩ ra lại thẹn cùng với ông Đào. Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn cùng với ông Đào. (Thu vịnh - Nguyễn Khuyến) Câu hỏi: Câu 1: xác định đề tài của bài bác thơ? Câu 2: Tìm gần như hình hình ảnh gợi tả bức ảnh
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Bức tranh vẽ mùa thu được tác giả phác họa với không gian thoáng đãng. Nến trời chấm phá một nét nhẹ, mềm của cảnh trúc: Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. (Tuyển tập thơ Nguyễn Khuyến, NXB Văn học, 2003, tr. 34) Thực hiện các yêu cầu sau: Câu 1. Xác định thể thơ được sử dụng trong đoạn trích.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái. Một tiếng trên không ngỗng nước nào. Nhân hứng cũng vừa toan cất bút. Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào". Các bản chú thích đều viết chung chung: ông Đào ở đây là Đào Uyên Minh người đời Tấn bên Trung Quốc, là một nhà thơ làm quan nổi tiếng về phẩm chất thanh cao.
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. 2. Phân tích bài thơ Thu vịnh Thiên nhiên mùa thu của quê hương làng cảnh Việt Nam, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Khuyến đẹp một cách thanh cao, gợi cảm, hồn hậu, khiến chúng ta càng thêm yêu, thêm quý quê
LY8EsE8. Tuyển chọn những bài văn hay Phân tích bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến. Với những bài văn mẫu đặc sắc, chi tiết dưới đây, các em sẽ có thêm nhiều tài liệu hữu ích phục vụ cho việc học môn văn. Cùng tham khảo nhé! Dàn ý Phân tích bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến 1. Mở bài – Nguyễn Khuyến có nhiều bài thơ viết về mùa thu. Chùm thơ thu nổi tiếng đã góp phần tôn vinh tên tuổi tác giả lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về quê hương làng cảnh Việt Nam. – Trong chùm thơ đó thì bài Thu vịnh tiêu biểu nhất, in đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khuyến. 2. Thân bài + Hai câu đề Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. – Mở đầu là hình ảnh bầu trời mùa thu xanh ngắt và cao vời vợi. Xanh ngắt là xanh thăm thẳm một màu; mấy từng cao là tưởng như bầu trời có nhiều lớp, nhiều tầng. – Nghệ thuật lấy điểm tả diện, lấy động tả tĩnh trong câu thứ hai thường thấy trong thơ cổ điển, được Nguyễn Khuyến vận dụng rất tự nhiên và phù hợp. Cần trúc thanh mảnh khẽ đong đưa trước ngọn gió hắt hiu gió nhẹ càng tôn thêm vẻ mênh mông của bầu trời mùa thu. + Hai câu thực Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. – Nước biếc là màu đặc trưng của nước mùa thu trong xanh. Lúc sáng sớm và chiều tối, mặt ao hồ thường có sương, trông như tầng khói phủ. Cảnh vật quen thuộc, bình dị trở nên huyền ảo. – Hình ảnh Song thưa để mặc bóng trăng vào có sự tương phản giữa cái hữu hạn song thưa và cái vô hạn bóng trăng, do vậy mà tứ thơ rộng mở, mênh mông ý nghĩa. – Cảnh vật trong bốn câu thơ trên được nhà thơ miêu tả ở những thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng mối dây liên hệ giữa chúng lại là sự nhất quán trong cảm xúc của tác giả. + Hai câu luận Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào. – Tâm trạng hoài cổ chi phối cách nhìn, cách nghĩ của nhà thơ. Hoa năm nay mà nghĩ là hoa năm ngoái. Tiếng ngỗng trời kêu quen thuộc mỗi độ thu về khiến nhà thơ giật mình, băn khoăn tự hỏi ngỗng nước nào? – Âm điệu câu thơ 4/1/2 như chứa chất bâng khuâng, suy tư. Nhà thơ quan sát cảnh vật với một nỗi niềm u uất. + Hai câu kết Nhân hứng cũng vừa toan cắt bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. – Thi hứng dạt dào thôi thúc nhà thơ cầm bút, nhưng phần lí trí bừng thức khiến nhà thơ chợt thấy thẹn với ông Đào. Tức Đào Tiềm, nhà thơ nổi tiếng đời Đường bên Trung Quốc. – Nguyễn Khuyến thẹn về tài thơ thua kém hay thẹn vì không có được khí tiết cứng cỏi như ông Đào ? Nói vậy nhưng Nguyễn Khuyến vẫn sáng tác nên bài Thu vịnh để đời. – Câu thơ cuối bỏ lửng khơi gợi suy ngẫm của người đọc. 3. Kết bài – Thu vịnh là một bài thơ hay, góp phần khẳng định tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến – Trình độ nghệ thuật của bài thơ đã đạt tới mức điêu luyện, khó ai sánh kịp. Bài văn mẫu Phân tích Thu vịnh của Nguyễn Khuyến Phân tích bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến – Bài mẫu 1 Nhắc tới Nguyễn Khuyến người ta nhớ đến những sáng tác của ông về mùa thu. Trong đó có nhiều bài thơ viết về mùa thu bằng chữ Hán và chữ thơ “Thu vịnh” là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Chính chùm thơ về mùa thu này đã giúp Nguyễn Khuyến bước lện vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa thu. Những câu thơ nhẹ nhàng dễ đi vào lòng người, sẽ không ai có thể quên, khi nhắc tới thơ về mùa thu Việt Nam, Thu Vịnh như là một trong 3 bài thơ đặc sản của thơ văn viết về mùa thu. Mọi cảnh vật quen thuộc hiện ra, vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, ngập nước với ao hồ, bờ tre bao bọc-một biểu tượng quen thuộc của làng quê Việt Nam. Mở đầu bài thơ Thu vịnh là một hình ảnh đầy quen thuộc như thế Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Hình ảnh ấn tượng nhất của mùa thu có lẽ là bầu trời, đó là màu xanh ngắt là xanh thăm thẳm, mấy từng cao là rất cao, tưởng như có nhiều lớp, nhiều tầng. Trên cái nền là bầu trời bao la là hình ảnh thanh tú của cần trúc đang đong đưa khe khẽ trước gió thu. Gió không mạnh không ồ ạt không mang cái nóng như mùa hè, cũng không ảm đạm như gió mùa đông, mà nhẹ nhàng hắt hiu, đúng chất của một ngọn gió mùa thu, chứa đựng nhiều tâm trạng ẩn trong đó. Sự lay động rất nhẹ của cần trúc ngày càng làm tăng thêm cái tĩnh lặng, sâu thẳm của bầu trời. Hình ảnh bầu trời thu và cần trúc tạo nên mối liên hệ chặt chẽ, động làm nổi bật tĩnh,mọi thứ như hòa quyện với nhau. Không dừng lại ở nét chấm phá ở hai câu đề, với cảnh vật hòa quyện với nhau, hai câu luận lại miêu tả cảnh vật thật như chốn bồng lai, có lấp ló bóng trăng Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. Màu nước biếc là màu nước đặc trưng của dòng nước vào thu khi khí trời bắt đầu se lạnh. Thu chính là thời khắc giao mùa giữa mùa hè và mùa đông cho nên, vừa có gió se,vừa có sương mỏng vờn trên mặt nước. Cảnh mặt nước khói sương bình thường ấy qua con mắt tinh tế và tâm hồn thi sĩ nhạy cảm đã trở nên yểu điệu có hồn. Lớp sương ấy như một dày thêm, không phải phảng phất nữa mà là như tầng khói phủ. Nước biếc có tầng khói phủ cho nên màu nước không còn biếc nữa mà hoá mông lung, huyền ảo. Đó là tiết thu dưới mặt đất, nét đặc trưng nhất. Hình ảnh “song thưa “ để mặc bóng trăng vào gợi ý thanh thoát, cởi mở. Bóng trăng vào qua song thưa để ngỏ cho nên bóng trăng trở nên mênh mông hơn, lặng lẽ hơn. Không gian không được mở ra theo chiều cao mà còn mở ra vẻ mênh mông bao la theo chiều rộng, nhưng mọi thứ đều tĩnh lặng và u tịch Vẫn với tâm trạng tĩnh lặng, có chút gợn buồn chi phối cách nhìn, cách nghĩ của Nguyễn Khuyến, cho nên khung cảnh thu được tiếp tục chấm phá với những ngôn từ Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không, ngỗng nước nào? Vẫn với những hình ảnh quen thuộc, sau mặt nước khói phủ, ngắm ánh trăng tràn qua song thưa, nhà thơ trông ra bờ giậu ngoài sân, ở đó, nở mấy chùm hoa. Điều lạ là nhà thơ cảm thấy đó là hoa năm ngoái. Nếu như cảnh vật được miêu tả qua con mắt nhìn có vẻ khách quan,thì cảm xúc của trái tim đã khoác lên cảnh vật màu sắc chủ quan. Tại sao tác giả lại thấy giậu hoa lại là hoa năm ngoái. Điều gì đang xảy ra trong lòng người? Con người đang ở trong hiện tại mà tâm trí như lùi về quá khử hay bóng dáng quá khứ đang trùm lấy hiện thực. Câu hỏi tu từ xuất hiện, hay chính là nỗi băn khoăn của tác giả. Cảnh trời đất vào thu,với khung cảnh trời cao, nước xanh biếc khói phủ rồi những âm thanh quen thuộc,nhưng khung cảnh ấy đang hòa vào một nỗi niềm u uất thể hiện sâu trong tâm tư con người tác giả. Trước khung cảnh thu và hồn thu khiến thi hứng dạt dào, nhà thơ toan cất bút, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, bỗng thấy thẹn với ông Đào nên đành thôi Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào Nhắc tới ông Đào, nhà thơ thấy thẹn? Thẹn vì tài thơ thua kém hay thẹn vì mình chưa có được nhân cách trong sáng và khí phách cứng cỏi như Đào Tiềm? Việc sử dụng điển tích điển cố ở đây tạo nên ý tứ sâu xa của tác và càng làm tăng thêm chất suy tư của cả bài thơ. Mọi cảnh vật mùa thu xuất hiện theo chiều cao và cả chiều rộng, những hình ảnh quen thuộc và cả những nét đặc trưng của mùa thu nữa nhưng đều phảng phất tâm trạng xót xa tiếc nuối trước tình trạng đất nước rơi vào tay giặc ngoại xâm, quá khứ tốt lành không còn nữa mà bản thân mình thì lực bất tòng tâm. Thu vịnh là một trong số bài thơ hay, khẳng định tình yêu quê hương đất nước đằm thắm trong thơ Nguyễn Khuyến, thể hiện qua tình yêu thiên nhiên tha thiết. Hồn thơ phóng khoáng, chỉ với những hình ảnh quen thuộc,vài nét chấm phá, bài thơ chỉ với 8 câu mà như vẽ ra bao viễn cảnh tươi đẹp. Sự tinh tế trong dùng từ để vịnh mùa thu cũng đạt tới mức điêu luyện tinh tế. Phân tích bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến – Bài mẫu 2 Nguyễn Khuyến có nhiều bài thơ viết về mùa thu bằng chữ Hán và chữ Nôm. Thu vịnh là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Chùm thơ này đã tôn vinh Nguyễn Khuyến lện vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa thu của quê hương, làng cảnh Việt Nam. Đáng lưu ý là các chi tiết trong bài thơ này đều rút ra từ cảnh vật thân quen của quê hương tác giả. Vùng đồng chiêm trũng Bình Lục một năm chỉ cấy được một mùa, còn toàn là ngập nước. Trong làng có vô số ao chuôm với những bờ tre quanh co bao bọc những mái tranh đầu bài thơ là hình ảnh bầu trời bao la, bát ngát Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Xanh ngắt là xanh thăm thẳm, mấy từng cao là rất cao, tưởng như có nhiều lớp, nhiều tầng. Trên cái nền là bầu trời bao la nổi bật lên hình ảnh thanh tú của cần trúc cây trúc non dáng cong cong như chiếc cần câu đang đong đưa khe khẽ trước gió thu. Giô hắt hiu là gió rất nhẹ và như chứa chất tâm trạng bên trong. Tất cả dường như có một mối cảm thông thầm lặng, sâu kín, tinh tế và khó nắm bắt.,. Sự lay động rất nhẹ của cần trúc càng làm tăng thêm cái lặng thinh, sâu thẳm của bầu trời. Bầu trời lại như dồn hết cái sâu lắng vào bên trong cần trúc, để cho nó vừa như đong đưa mà cũng vừa như đứng yên. Đó là nét động và nét tĩnh của cảnh thu. Hai câu đề chấm phá hai nét phong cảnh đơn sợ, thanh thoát nhưng hoà điệu nhịp nhàng với tâm hồn tác giả. Trong đó, mọi chi tiết, sắc màu, đường nét, cử động đều rất hài hoà. Nhà thơ mới nói đến trời thu nhưng ta đã thấy cả hồn thu trong đó. Hai câu luận Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. Nước biếc là màu nước đặc trưng của mùa thu khi khí trời bắt đầu se lạnh. Sáng sớm và chiều tối, trên mặt ao, mặt hồ có một lớp sương mỏng trông như khói phủ. Cảnh mặt nước khói sương bình thường ấy qua con mắt và tâm hồn thi sĩ đã trở thành một dáng thu ngâm vịnh. Tầng khói phủ khác làn khói phụ vì sương đã trở nên dày hơn, nhiều lớp hơn, có chiều cao, độ sâu, như chất chứa cái gì đó ở bên trong. Nước biếc cỏ tầng khói phủ thì màu nước không còn biếc nữa mà lãn vào làn khói lam mờ, hoá mông lung, huyền ảo. Đó là dáng thu dưới mặt đất, sau dáng thu trên bầu trời. Hình ảnh song thưa gợi ý thanh thoát, cởi mở. Bóng trăng vào qua song thưa để ngỏ thì bóng trăng trở nên mênh mông hơn, lặng lẽ hơn. Nếu ở câu trên là một trạng thái có chiều cao, có độ sâu thì ở câu này lại là một trạng thái mở ra thành một bề rộng, mặc dù bj giới hạn bởi khung cửa sổ song thưa mà vẫn cứ mênh mông ở ý nghĩa bên trong, ở tinh thần và âm điệu,., nhưng trạng thái nào thì cũng đều tĩnh mịch và chất chứa suy tư. Cảnh vật trong bốn câu thơ đầu được miêu tả ở những thời điểm khác nhau. Nhìn thấy màu trời xanh ngắt; cần trúc lơphơìà lúc đang trưa. Mặt nước biếc trông như tầng khói phủ là lúc hoàng hôn và bóng trăng tràn qua song thưa là lúc trời đã vào đêm… Mỗi cảnh một vẻ đẹp khác nhau, nhưng mối dây liên kết giữa chúng lại chính là sự nhất quán trong tâm tư tác giả. Ngòi bút cũng theo diễn biến tâm tư mà chọn ra mấy nét điển hình kia. Tuy khác nhau nhựng dường như các hình ảnh trên đều cùng gợi lên trạng thái íặng yên, ẩn giấu sự cảm thông, giao hoà giữa tâm hồn tác giả và hồn thu. Tâm trạng chủ đạo ấy chi phối cách nhìn, cách nghĩ của Nguyễn Khuyến Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không, ngỗng nước nào? Sau khi nhìn mặt nước khói phủ, ngắm ánh trăng tràn qua song thưa, nhà thơ trông ra bờ giậu ngoài sân, ở đó, nở mấy chùm hoa. Điều lạ là bỗng dưng, nhà thơ cảm thấy đó là hoa năm ngoái. Ở trên, cảnh vật được miêu tả qua con mắt nhìn có vẻ khách quan, đến đây cảm xúc của trái tim đã khoác lên cảnh vật màu sắc chủ quan. Hoa nở trước mắt hẳn hoi mà cảm thấy là hoa năm ngoái. Điều gì đã xảy ra trong lòng người? Con người đang ở trong hiện tại mà như lùi về quá khử hay bóng dáng quá khứ hiện về trong thực tại? Âm điệu câu thơ theo nhịp 4/1/2 Từ Mấy chùm trước giậu đến hoa năm ngoái có một đoạn suy tư, ngẫm nghĩ và sau đó đột nhiên xuất hiện cảm giác lạ lùng là hoa năm ngoái chú không phải hoa năm nay. Cảm giác ấy khiến nhà thơ nghe tiếng ngỗng trên không văng vẳng mà giật mình băn khoăn tự hỏi ngỗng nước nào? Mặc dù âm thanh ấy đã quá quen thuộc mỗi độ thu về. Nếu như tròng bốn câu thơ trên, cảnh vật hài hoà, giao cảm với nhau thì đến đây, con người hoà hợp với cảnh vật trong một nỗi niềm u uất. Cảnh vật thể hiện tâm tư con người và tâm tư con người thể hiện qua cách nhìn cảnh vật. Như vậy, cảnh vật được miêu tả qua đôi mắt và trái tim rung cảm của nhà thơ. Mùa thu tới, nhà thơ nhìn hoa trước sân, nghe tiếng chim kêu trên trời vẳng xuống mà trỗi dậy cả một niềm xót xa, lặng lẽ mà như nẫu ruột, chết lòng. Chiều sâu của tâm hồn thi sĩ lắng đọng vào chiều sâu của câu thơ là vậy. Trước cảnh thu và hồn thu khiến thi hứng dạt dào, nhà thơ toan cất bút, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, bỗng nhiên thấy thẹn với ông Đào nên đành thôi Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Nhà thơ thẹn nỗi gì vậy? Thẹn vì tài thơ thua kém hay thẹn vì mình chưa có được nhân cách trong sáng và khí phách cứng cỏi như Đào Tiềm? Lôgic của bài thơ là từ cảnh đến tình, từ tình đến người. Lời thơ trong câu kết có cái gì đó lửng lơ mà kín đáo, do đó càng làm tăng thêm chất suy tư của cả bài thơ. Nguyễn Khuyến miêu, tả cảnh thu ở quê hương mình, từ mày trời, ngọn trúc, mặt nước, ánh trăng đến chùm hoa trước giậu, tiếng ngỗng trên không… để dẫn đến cặm xúc đầy suy tư ẩn chứa trong cảnh vật. Thông qua đó, òng gửỉ gắm tâm trạng xót xa, tiếc nuối trước tình trạng đất nước rơi vào tay giặc ngoại xâm, quá khứ tốt lành không còn nữa mà mình thì lực bất tòng tâm. Thu vịnh là một bài thơ hay, góp phần khẳng định tình yêu quê hương đất nước đằm thắm trong thơ Nguyễn Khuyến, thể hiện qua tình yêu thiên nhiên tha thiết. Trình độ nghệ thuật của bài thơ đã đạt đến mức điêu luyện, tinh tế, không dễ mấy ai sánh được. Phân tích bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến – Bài mẫu 3 Nguyễn Khuyến- một nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, những khung cảnh, đời sống của làng quê được ngòi bút tinh tế của ông khắc lên vừa có hồn lại vừa vẻ nên được những bức ảnh làng quê vô cùng lãng mạn, trữ tình. Bằng ngòi bút tả cảnh ngụ tình đã khiến cho biết bao tác phẩm của ông đi vào lòng người. Đặc biệt là chùm thơ thu, với Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm đã để lại những dấu ấn khá sâu đậm và đi vào lòng người bằng những hình ảnh, những nét đặc trưng tiêu biểu của mùa thu. Và với bài thơ thu vịnh, Nguyễn Khuyến cho thấy một tâm sự u hoài, một tấm lòng xót xa trước cảnh, kín đáo, bày tỏ một tình cảm yêu nước chân thành. Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Ở đây, khác hẳn với những trời thu trong “thu điếu” và “thu ẩm”, trời thu của thu vịnh được mở đầu là một khung cảnh cao vút và thăm thẳm của trời thu, và xen vào đó là cái se se lạnh của mùa thu. Với cái nền là bầu trời bao la “xanh ngắt”, “ mấy tầng cao” nổi bật lên hình ảnh thanh tú của cần trúc đang đong đưa khe khẽ trước gió thu. Và hình ảnh động của gió hắt hiu như chứa chất tâm trạng bên trong. Mở đầu như vậy khiến cho người đọc có thể phần nào thấy được một nỗi lòng đầy lo âu. Sự lay động rất nhẹ của cần trúc càng làm tăng thêm cái lặng thinh, sâu thẳm của bầu trời. Hai câu đề chấm phá hai nét phong cảnh đơn sợ, thanh thoát nhưng hoà điệu nhịp nhàng với tâm hồn tác giả. Nhà thơ đã vẽ lên một khung cảnh trời thu vừa có cảnh thực là vừa có hồn thu ở trong cảnh. Nước biếc trông như tầng khói phủ Song thưa để mặc bóng trăng vào. Nước biếc là màu nước đặc trưng của mùa thu khi khí trời bắt đầu se lạnh. Sáng sớm và chiều tối, trên mặt ao, mặt hồ có một lớp sương mỏng trông như khói phủ làm cho người đọc có cảm giác cảnh mùa thu được chen lẫn với màu khói. Và chính cái cảnh mặt nước khói sương bình thường ấy qua con mắt và tâm hồn thi sĩ đã trở thành một dáng thu ngâm vịnh. Tầng khói phủ khác làn khói phụ vì sương đã trở nên dày hơn, nhiều lớp hơn, có chiều cao, độ sâu, như chất chứa cái gì đó ở bên trong. Chỉ bằng vài nét chấm phá nho nhỏ của mùa thu đã khiến cho mùa thu như có hồn và sự hòa quyện giữa cảnh thu và lòng người đi vào trong lòng người đọc Hình ảnh song thưa gợi ý thanh thoát, cởi mở, két hợp với hình ảnh ánh trăng- hình ảnh quên thuộc đều có ở mỗi làng quê, góp phần vừa tạo nên cảm giác gần gũi, vừa tạo cho người đọc có được có cảm giác thiên nhiên luôn luôn hài hòa và gần gũi với nhau. Nếu ở câu trên là một trạng thái có chiều cao, có độ sâu thì ở câu này lại là một trạng thái mở ra thành một bề rộng, giới hạn bởi khung cửa sổ song thưa mà vẫn cứ mênh mông ở ý nghĩa bên trong, ở tinh thần và âm điệu, nhưng trạng thái nào thì cũng đều tĩnh mịch và chất chứa suy tư. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không, ngỗng nước nào? Nếu như cảnh vật ở 4 câu thơ trên được miêu tả qua con mắt nhìn có vẻ khách quan, đầy cảm xúc của trái tim. Nghệ thuật đảo ngữ làm nổi bật hình ảnh “mấy chùm” hoa và “một tiếng” ngỗng. Hình ảnh “hoa năm ngoái” có sức gợi tả mạnh; “hoa năm ngoái” có nghĩa là hoa vẫn là hoa y như năm ngoái mà nước hôm nay thì đã trở thành “nước nào”. Và tiếng ngỗng ở đây, về nghệ thuật, là lấy cái động để diễn tả cái tĩnh. Cảm giác khi nghe tiếng ngỗng trên không văng vẳng mà giật mình băn khoăn tự hỏi ngỗng nước nào? Mặc dù âm thanh ấy đã quá quen thuộc mỗi độ thu về. Và nếu như 4 câu thơ trên sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người có sự kết hợp hài hòa thì đến 2 câu thơ này, là một nỗi u uất của lòng người trước cảnh vật thiên nhiên, là nỗi niềm xót xa, nẫu ruột, chết lòng. Và rồi đến 2 câu thơ kết của của bài thơ là cảm hứng và nỗi thẹn của nhà thơ Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. “Nhân hứng” ở đây chính là hứng làm thơ trước cảnh mùa thu, “toan cất bút” định không viết nhưng trước cảnh đẹp thì lại tạo được hứng khởi để viết. “Nghĩ ra” tức là ý thức, là lý trí, là tỉnh. Nguyễn Khuyến rất say mà rất tỉnh. Ông say trước cảnh đẹp của mùa thu, nhưng ông vẫn tỉnh trước lương tâm của mình. Cho nên, ông nói được là thẹn. Nhưng thẹn với ai? Có lẽ thẹn vì tài thơ thua kém hay thẹn vì mình chưa có được nhân cách trong sáng và khí phách cứng cỏi như Đào Tiềm? Với hướng văn đi từ cảnh đến tình, từ tình đến người và rồi là cái kết có chút lẳng lơ nhưng mà lại vô cùng kín đáo ẩn chứa rất nhiều suy tư của người đọc. Phân tích bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến – Bài mẫu 4 Bằng những hành ảnh gần gũi thân thương của làng qua trong cảnh mùa thu từ mây, trời, ngọn trúc, mặt nước, ánh trăng, và những âm thâm quen thuộc của gió, tiếng ngỗng… Cũng chính vì vật mà bài thơ đã mang một nét riêng, một cảnh đẹp nhưng lại ẩn chứa những nỗi lòng khó có thể diễn tả hết được. Cũng chính qua bài thơ, góp phần nào khẳng định được tình yêu quê hương đất nước, tình yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ, và cái tình yêu đó được thể hiện hết sức tinh tế và uyên thâm không mấy ai có thể diễn tả được. Như đã nói, Nguyễn Khuyến thường dành tình cảm đặc biệt cho quê hương làng cảnh Việt Nam. Ông có một chùm thơ nổi tiếng viết về mùa thu gồm có 3 bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm đều đặc tả phong cảnh làng quê. Phân tích thu vịnh cũng như chùm thơ này sẽ thấy, Nguyễn Khuyến đã sáng tác theo lối “chùm ba” của đại thi hào Trung Quốc – Đỗ Phủ. Đối với bài “Thu vịnh”, Xuân Diệu từng nhận xét rằng đây là bài thơ trong ba bài về mùa thu của Nguyễn Khuyến mang cái hồn, cái chất của mùa thu hơn cả. Qua “Thu vịnh”, mùa thu xử Bắc hiện lên rõ nét, tinh tế và cũng ẩn chưa những tâm sự sâu kín của người viết Trời thu xanh ngắt mấy từng cao. Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tảng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Mở đầu bài thơ, tác giả phác họa một bức tranh không gian thoáng đãng. Trên nền trời được chấm phá một nét mỏn, mềm của cành trúc Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. “Trời thu xanh ngắt” là điểm đặc trưng đầu tiên của mùa thu xứ Bắc. Nhưng màu xanh ấy không chỉ là màu của trời thu mà còn ẩn chứa tình yêu tha thiết của người viết đối với mùa thu cũng như làng cảnh quê hương. Không gian ngày mùa thu còn mở ra thăm thẳm với “mấy tầng cao”. Giữa màn trời xanh ngắt, một cành trúc vươn lên thật thanh cao mà không đìu hiu như “rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang” như trong thơ của Xuân Diệu. Từ láy “lơ phơ” khi tả cành trúc cũng thật gợi hình, nó gợi tả sự thưa thớt của lá trúc, nên trước gió mùa thu không ngừng lay động. Còn cơn gió “hắt hiu” là gió như thế nào? Đúng hơn, cái sự “hắt hiu” đó là những rung động, là nỗi buồn mơ hồ mà tâm hồn người thi nhân cảm thấy khi đứng trước cảnh thu đượm buồn. Nhưng rồi bức tranh mùa thu trong “Thu vịnh” được Nguyễn Khuyến cho thêm sắc màu mới, đường nét và hình ảnh mới. Cái không khí mùa thu xứ Bắc vì thế thêm đa đa dạng hơn Nước biếc trông như tầng khói phủ Song thưa để mặc bóng trăng vào Và mùa thu được pha thêm màu “nước biếc”, mùa thu được khoác lên chiếc áo mới với màu xanh tha thiết. Gợi hình, gợi cảm hơn nữa khi áo thu trong xanh hòa quyện cùng “khói phủ” nhạt nhòa. Như cảnh đêm thu còn huyền diệu hơn thế khi có thêm trăng. Người thi nhân mở cửa để đón trăng “Song thưa để mặc bóng trăng vào”. Cũng như nhiều nhà thơ khác, trăng là người bạn tri kỉ của Nguyễn Khuyến. Và có lẽ, nếu không có sự hiện diện của trăng, bức tranh mùa thu sẽ thiếu đi nhiều sự thi vị. Cảnh vật trong đêm được bao trùm bởi ánh trăng sẽ trở nên huyền ảo, mộng mơ hơn. Cảnh đêm thu ấy càng trở nên huyền hoặc hơn khi có sự góp mặt của tiếng chim, của “giậu hoa”; Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Hoa mùa thu vẫn thế, không có sắc màu, là bởi khói phủ nhạt nhòa hay người viết đã không còn ý niềm về dòng thời gian trôi. Nên chỉ biết là hoa năm ngoái, mà chẳng rõ “mấy chùm trước giậu” là hoa gì, có màu sắc ra sao. Điều này khiến tứ thơ của Nguyễn Khuyến thêm trừu tượng và dường như đó cũng là tâm trạng bất biến của người viết. “Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”, câu thơ mang một nỗi buồn man mác, khi âm thanh của mùa thu là một tiếng ngỗng trời xa lạ, cái xa lạ khiến lòng người thi nhân thổn thức. Nguyễn Khuyến viết bài thơ với cảm hứng từ một đêm thu huyền diệu, nhưng cũng chính trong đêm thu ấy mà niềm thi hứng lại mang nỗi niềm u uẩn. Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào Trước cảnh thu đẹp mà buồn man mác, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ nỗi lòng mình. Với Nguyễn Khuyến cũng như với các nhà thơ chân chính, thơ sẽ luôn gắn liền với nhân cách. Nhân cách lớn thì thơ lớn. Khi rung động trước cảnh đêm thu, toan cất bút làm thơ, Nguyễn Khuyến lại cảm thấy “thẹn với ông Đào”. Ông Đào Nguyễn Khuyến nhắc đến là Đào Tiềm – nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc xưa kia. Ông thẹn bởi so với “ông Đào” vì cái khí tiết của ông trong giới quan trường Trung Hoa khi dứt khoát từ quan. Nghĩ về mình, Nguyễn Khuyến làm quan trong thời buổi khó tránh khỏi việc là tay sai của giặc Pháp. Bởi vậy, khi đã về quê sống ẩn dật, ông vẫn luôn ân hận về những năm làm việc trong bộ máy chính quyền thối nát tàn bạo thời ấy. Như vậy, phân tích thu vịnh ta không chỉ thấy một bức tranh mùa thu đẹp huyền ảo mà còn thấy được tấm lòng chân thực cũng như niềm u uẩn một nhà thơ, một nhân cách lớn Nguyễn Khuyến. Một lần nữa cần khẳng định rằng “Thu vịnh” là một bài thơ thơ viết về mùa thu. Qua bài thơ, bức tranh mùa thu hiện lên thật thanh đạm, uyển chuyển và cũng thật huyền ảo. Bên cạnh đó, “Thu vịnh” còn là nỗi lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương đất nước. Bởi vậy, phân tích thu vịnh ta như thấy, Nguyễn Khuyến miêu tả vẻ đẹp của đêm mùa thu và cũng là bộc bạch những nỗi niềm sâu kín. Qua bài thơ “Thu vịnh” người đọc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên của làng quê Việt Nam, từ đó càng thêm yêu quý quê hương mình. —/— Trên đây là các bài văn mẫu Phân tích bài thơ Thu vịnh của Nguyễn Khuyến do THPT Trịnh Hoài Đức sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất! Đăng bởi THPT Trịnh Hoài Đức Chuyên mục Lớp 11, Ngữ Văn 11
Phân tích bài Thu vịnh của Nguyễn Khuyến lớp 11 Đọc bài thơ Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào Qua việc vịnh mùa thu với những nét đẹp tiêu biểu, Nguyễn Khuyến cho thấy một tâm sự u hoài, một tấm lòng xót xa trước cảnh, kín đáo, bày tỏ một tình cảm yêu nước chân thành. 1. Tổng Qua việc vịnh mùa thu với những nét đẹp tiêu biểu, Nguyễn Khuyến cho thấy một tâm sự u hoài, một tấm lòng xót xa trước cảnh, kín đáo, bày tỏ một tình cảm yêu nước chân thành. 2. Phân tích A, Đề Giới thiệu tổng quát cảnh mùa thu. Hình ảnh "Trời thu xanh ngắt.." Màu xanh quen thuộc của Nguyễn Khuyến khi tả mùa thu, "mấy tầng cao" Vẽ được cái cao vút, thăm thẳm của khung trời mùa thu. Hình ảnh "cần trúc lơ phơ" tạo nét động cho bức tranh thu. "Hắt hiu" Diễn tả được cái se lạnh của gió mùa thu. Cách giới thiệu rất khéo và rất đạt. B, Thực Cảnh trăng nước của mùa thu Màu sắc nước biếc hòa hợp trong tranh của Nguyễn Khuyến. Cách so sánh "trông như tầng khói phủ" làm cho cảnh dịu nhẹ, mờ nhạt. Ta hình dung được mùa thu trong màu biếc lẫn với màu khói. Hình ảnh "Song thưa để mặc ánh trăng vào" quen thuộc mà vẫn nên thơ. Cách nói của Nguyễn Khuyến "để mặc" cho thấy cảnh của ông phóng khoáng, tâm hồn ông rộng mở. Cảnh đẹp, màu sắc dịu nhẹ. Cảnh cho thấy sự hòa nhập của con người với thiên nhiên. Ta có cảm tưởng Nguyễn Khuyển đang thả mình trong thiên nhiên với làn nước, với ánh trăng. C, Luận Cảnh hoa và tiếng chim ngỗng của mùa thu. Nghệ thuật đảo ngữ làm nổi bật hình ảnh "mấy chùm" hoa và "một tiếng" ngỗng. Hình ảnh "hoa năm ngoái" có sức gợi tả mạnh; "hoa năm ngoái" có nghĩa là hoa vẫn là hoa y như năm ngoái gợi lên cho ta hiểu mà nước hôm nay thì đã trở thành "nước nào". Hình ảnh "hoa năm ngoái" làm ta nhớ cách dùng chữ của Nguyễn Du "Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông". Tiếng ngỗng ở đây, về nghệ thuật, là lấy cái động để diễn tả cái tĩnh. Nói tóm lại, hai câu luận cũng là tả về mùa thu, nhưng qua cảnh, ta thấy được tâm trạng của nhà thơ, thấy được sự thầm kín của một con người không thể dửng dưng trước cảnh mất nước. D, Kết. Cảm hứng và nỗi thẹn của nhà thơ. "Nhân hứng" tức là cái hứng thú trước cảnh đẹp của mùa thu. "Toan cất bút" nghĩa là định làm thơ, cảnh thu đẹp và gợi hứng cho nhà thơ. "Nghĩ ra" tức là ý thức, là lý trí, là tỉnh. Nguyễn Khuyến rất say mà rất tỉnh. Ông say trước cảnh đẹp của mùa thu, nhưng ông vẫn tỉnh trước lương tâm của mình. Cho nên, ông nói được là thẹn. Nhưng thẹn với ai? Ông Đào tức là Đào Tiềm, một danh sĩ đồng thời là một nhà thơ nổi từ đời Tấn, đã "dũng thoái" treo ấn từ quan, về sống với ruộng vườn, với hoa cũ được giữ cho được cái khí tiết của mình. Bằng điển tích này, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ "cái tôi" của mình trong cảnh sắc mùa thu một cách khá đậm nét. "Thẹn với" ông Đào "là một cách nói bộc lộ đưực tấm lòng thanh cao của nhà thơ, thể hiện được cái tự hào khiêm tốn của ông trước lương tâm của mình" Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu ". 3. Hợp. Bài" Thu Vịnh "tả tổng quát về mùa thu, chứ không nói một đặc cảnh" uống rượu "hay" câu cá ", nhưng ta vẫn thấy nét thu đặc biệt của Nguyễn Khuyến. Hơn nữa, trong cảnh sắc mùa thu này, ta thấy khá rõ được tâm hồn thanh cao và khí tiết của một người" Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết ". Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ - trích bài Mẹ Mốc của Nguyễn Khuyến. Cảm hứng chủ đạo Thu vịnh có nghĩa là vịnh mùa thu, cũng có thể hiểu mùa thu làm thơ ngâm vịnh. Bài thơ nói lên những rung động của tâm hồn. Nguyễn Khuyến, trước cảnh đẹp mùa thu; ngập ngừng bày tỏ một nỗi niềm thầm kín trước thời cuộc. Phân tích 1. Đề Câu 1, tả vẻ đẹp trời thu nơi đồng quê Xanh ngắt, thăm thẳm" mấy từng cao ". Còn có cái bao la, mênh mông của bầu trời mà ta cảm nhân được. Câu 2 tả một nét thu hữu tình. Gió thu nhè nhẹ, lành lạnh" hắt hiu "gợi buồn, khẽ lay động những ngọn tre, ngọn măng trên lũy tre làng." Cần trúc lơ thơ "là một hình ảnh đầy chất thơ mang theo hồn quê man mác. 2. Thực Cảnh thu sáng sớm hay hoàng hôn, chập tối hay canh khuya? Mặt ao thu" nước biếc "bao phủ mơ màng một làn sương" như từng khói phủ ". Đêm đêm nhà thơ mở rộng cửa sổ song thưa để đón trăng thu. Hai chữ " để mặc " trong câu thơ" Song thưa để mặc bóng trăng vào "rất thần tình, gợi tả tâm hồn rộng mở và thanh cao của thi nhân. Nguyễn Khuyến thưởng trăng nào có khác gì Nguyễn Trãi 600 năm về trước" Hé cửa đêm chờ hương quế lọt "Hương quế Trăng. Phần thực tả trăng nước mùa thu mang vẻ đẹp êm đềm, thơ mộng. Nhà thơ như đang chan hòa, đang trang trải lòng mình với thiên nhiên. 3. Luận Lấy hoa để nhắc lại hoài niệm; lấy tiếng ngỗng không chỉ mượn động để tả tĩnh mà còn để gợi tả nỗi niềm cô đơn của mình." Hoa năm ngoái "như một chứng nhân buồn. Có khác gì Đỗ Phủ xưa" Khóm cúc tuôn rơi dòng lệ cũ "?" Ngỗng nước nào ", một câu hỏi nhiều bâng khuâng. Quê hương mình, đất nước mình.. nhưng hồn quê nay đã sầu tủi, hồn nước nay đã bơ vơ.. đã thành " nước nào " rồi. Tiếng chích chòe, tiếng cuốc kêu, tiếng ngỗng gọi đàn trong thơ Nguyễn Khuyến đầy ám ảnh. Lấy cái nhìn thấy đối với cái nghe thấy, lấythời gian đối với không gian, Nguyễn Khuyến đã khơi gợi trong hồn ta cái chất thơ của tình thu quyện vào trong cảnh thu . Thu vịnh là như thế! 4. Kết Niềm hứng khởi và nỗi thẹn của nhà thơ. Ngập ngừng muốn cất bút làm thơ để vịnh thu, nhưng rồi lại thẹn . Thẹn với ai? Với danh sĩ Đào Tiềm đời nhà Tấn bên Trung Quốc ngày xưa. Thẹn về tài thơ hay thẹn về khí tiết? Lấy điển tích này diễn đạt bằng một so sánh, Nguyễn Khuyến khiêm tốn và kín đáo giãi bày tâm sự mình, khẳng định lương tâm một nhà nho quyết giữ vững khí tiết" Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu "Di chúc. Kết luận Có yêu mùa thu nhiều lắm mới tả, mới vịnh mùa thu hay như vậy. Một nét thu là một nét vẽ thoáng và nhẹ, thanh và trong, thực và mộng. Bầu trời và mặt nước, ngọn tre và làn gió thu, bóng trăng và màn sương khói, chùm hoa và tiếng ngỗng trời.. chứa đựng cả một hồn thu đồng quê xa xưa. Trong cái hồn thu ấy thoáng hiện tâm tình, tâm hồn thi nhân Thanh cao, giàu khí tiết, lặng lẽ và cô đơn. Cảnh thu, tình thu đẹp mà thoáng buồn, đầy chất thơ." Thu vịnh"là một bài thơ kiệt tác. Dàn ý khái quát I. DÀN Ý 1. Mở bài - Nguyễn Khuyến có nhiều bài thơ viết về mùa thu. Chùm thơ thu nổi tiếng đã góp phần tôn vinh tên tuổi tác giả lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về quê hương làng cảnh Việt Nam. - Trong chùm thơ đó thì bài Thu vịnh tiêu biểu nhất, in đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khuyến. 2. Thân bài + Hai câu đề Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. - Mở đầu là hình ảnh bầu trời mùa thu xanh ngắt và cao vời vợi. Xanh ngắt là xanh thăm thẳm một màu; mấy từng cao là tưởng như bầu trời có nhiều lớp, nhiều tầng. - Nghệ thuật lấy điểm tả diện, lấy động tả tĩnh trong câu thứ hai thường thấy trong thơ cổ điển, được Nguyễn Khuyến vận dụng rất tự nhiên và phù hợp. Cần trúc thanh mảnh khẽ đong đưa trước ngọn gió hắt hiu gió nhẹ càng tôn thêm vẻ mênh mông của bầu trời mùa thu. + Hai câu thực Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. - Nước biếc là màu đặc trưng của nước mùa thu trong xanh. Lúc sáng sớm và chiều tối, mặt ao hồ thường có sương, trông như tầng khói phủ. Cảnh vật quen thuộc, bình dị trở nên huyền ảo. - Hình ảnh Song thưa để mặc bóng trăng vào có sự tương phản giữa cái hữu hạn song thưa và cái vô hạn bóng trăng, do vậy mà tứ thơ rộng mở, mênh mông ý nghĩa. - Cảnh vật trong bốn câu thơ trên được nhà thơ miêu tả ở những thời điểm khác nhau trong ngày, nhưng mối dây liên hệ giữa chúng lại là sự nhất quán trong cảm xúc của tác giả. + Hai câu luận Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào. - Tâm trạng hoài cổ chi phối cách nhìn, cách nghĩ của nhà thơ. Hoa năm nay mà nghĩ là hoa năm ngoái. Tiếng ngỗng trời kêu quen thuộc mỗi độ thu về khiến nhà thơ giật mình, băn khoăn tự hỏi ngỗng nước nào? - Âm điệu câu thơ 4/1/2 như chứa chất bâng khuâng, suy tư. Nhà thơ quan sát cảnh vật với một nỗi niềm u uất. + Hai câu kết Nhân hứng cũng vừa toan cắt bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. - Thi hứng dạt dào thôi thúc nhà thơ cầm bút, nhưng phần lí trí bừng thức khiến nhà thơ chợt thấy thẹn với ông Đào. Tức Đào Tiềm, nhà thơ nổi tiếng đời Đường bên Trung Quốc. - Nguyễn Khuyến thẹn về tài thơ thua kém hay thẹn vì không có được khí tiết cứng cỏi như ông Đào? Nói vậy nhưng Nguyễn Khuyến vẫn sáng tác nên bài Thu vịnh để đời. - Câu thơ cuối bỏ lửng khơi gợi suy ngẫm của người đọc. 3. Kết bài - Thu vịnh là một bài thơ hay, góp phần khẳng định tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến - Trình độ nghệ thuật của bài thơ đã đạt tới mức điêu luyện, khó ai sánh kịp. II. BÀI LÀM Nguyễn Khuyến có nhiều bài thơ viết về mùa thu bằng chữ Hán và chữ Nôm. Thu vịnh là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Chùm thơ này đã tôn vinh Nguyễn Khuyến lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa thu của quê hương, làng cảnh Việt Nam. Đáng lưu ý là các chi tiết trong bài thơ này đều rút ra từ cảnh vật thân quen của quê hương tác giả. Vùng đồng chiêm trũng Bình Lục một năm chỉ cấy được một mùa, còn toàn là ngập nước. Trong làng có vô số ao chuôm với những bờ tre quanh co bao bọc những mái tranh nghèo. Mở đầu bài thơ là hình ảnh bầu trời bao la, bát ngát Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Xanh ngắt là xanh thăm thẳm, mấy từng cao là rất cao, tưởng như có nhiều lớp, nhiều tầng. Trên cái nền là bầu trời bao la nổi bật lên hình ảnh thanh tú của cần trúc cây trúc non dáng cong cong như chiếc cần câu đang đong đưa khe khẽ trước gió thu. Gió hắt hiu là gió rất nhẹ và như chứa chất tâm trạng bên trong. Tất cả dường như có một mối cảm thông thầm lặng, sâu kín, tinh tế và khó nắm bắt.. Sự lay động rất nhẹ của cần trúc càng làm tăng thêm cái lặng thinh, sâu thẳm của bầu trời. Bầu trời lại như dồn hết cái sâu lắng vào bên trong cần trúc, để cho nó vừa như đong đưa mà cũng vừa như đứng yên. Đó là nét động và nét tính của cảnh thu. Hai câu đề chấm phá hai nét phong cảnh đơn sơ, thanh thoát nhưng hòa điệu nhịp nhàng với tâm hồn tác giả. Trong đó, mọi chi tiết, sắc màu, đường nét, cử động đều rất hài hòa. Nhà thơ mới nói đến trời thu nhưng ta đã thấy cả hồn thu trong đó. Hai câu luận Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. Nước biếc là màu nước đặc trưng của mùa thu khi khí trời bắt đầu se lạnh. Sáng sớm và chiều tối, trên mặt ao, mặt hồ có một lớp sương mỏng trông như khói phủ. Cảnh mặt nước khói sương bình thường ấy qua con mắt và tâm hồn thi sĩ đã trở thành một dáng thu ngâm vịnh. Tầng khói phủ khác làn khói phủ vì sương đã trở nên dày hơn, nhiều lớp hơn, có chiều cao, độ sâu, như chất chứa cái gì đó ở bên trong. Nước biếc có tầng khói phủ thì màu nước không còn biếc nữa mà lẫn vào làn khói lam mờ, hỏa mông lung, huyền ảo. Đó là dáng thu dưới mặt đất, sau dáng thu trên bầu trời. Hình ảnh song thưa gợi ý thanh thoát, cởi mở. Bóng trăng vào qua song thưa để ngỏ thì bóng trăng trở nên mênh mông hơn, lặng lẽ hơn. Nếu ở câu trên là một trạng thái có chiều cao, có độ sâu thì ở câu này lại là một trạng thái mở ra thành một bề rộng, mặc dù bị giới hạn bởi khung cửa sổ song thưa mà vẫn cứ mênh mông ở ý nghĩa bên trong, ở tinh thần và âm điệu.. nhưng trạng thái nào thì cũng đều tĩnh mạch và chất chứa suy tư. Cảnh vật trong bốn câu thơ đầu được miêu tả ở những thời điểm khác nhau. Nhìn thấy màu trời xanh ngắt, cần trúc lơ phơ là lúc đang trưa. Mặt nước biếc trông như tầng khói phủ là lúc hoàng hôn và bóng trăng tràn qua song thưa là lúc trời đã vào đêm.. Mỗi cảnh một vẻ đẹp khác nhau, nhưng mối dây liên kết giữa chúng lại chính là sự nhất quán trong tâm tư tác giả. Ngòi bút cũng theo diễn biến tâm tư mà chọn ra nấy nét điển hình kia. Tuy khác nhau nhưng dường như các hình ảnh trên đều cùng gợi lên trạng thái lặng yên, ẩn giấu sự cảm thông, giao hòa giữa tâm hồn tác giả và hồn thu. Tâm trạng chủ đạo ấy chi phối cách nhìn, cách nghĩ của Nguyễn Khuyến Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không, ngỗng nước nào? Sau khi nhìn mặt nước khói phủ, ngắm ánh trăng tràn qua song thưa, nhà thơ trông ra bờ giậu ngoài sân. Ở đó, nở mấy chùm hoa. Điều lạ là bỗng dưng, nhà thơ cảm thấy đó là hoa năm ngoái. Ở trên, cảnh vật được miêu tả qua con mắt nhìn có vẻ khách quan, đến đầy cảm xúc của trái tim đã khoác lên cảnh vật màu sắc chủ quan. Hoa nở trước mắt hẳn hoi mà cảm thấy là hoa năm ngoái. Điều gì đã xảy ra trong lòng người? Con người đang ở trong hiện tại mà như lùi về quá khứ hay bóng dáng quá khứ hiện về trong thực tại? Âm điệu câu thơ theo nhịp 4/1/2 Từ Mấy chùm trước giậu đến hoa năm ngoái có một đoạn suy tư, ngẫm nghĩ và sau đó đột nhiên xuất hiện cảm giác lạ lùng là hoa năm ngoái chứ không phải hoa năm nay. Cảm giác ấy khiến nhà thơ nghe tiếng ngỗng trên không văng vẳng mà giật mình băn khoăn tự hỏi Ngỗng nước nào? Mặc dù âm thanh ấy đã quá quen thuộc mỗi độ thu về. Nếu như trong bốn câu thơ trên, cảnh vật hài hòa, giao cảm với nhau thì đến đây, con người hòa hợp với cảnh vật trong một nỗi niềm u uất. Cảnh vật thể hiện tâm tư con người và tâm tư con người thể hiện qua cách nhìn cảnh vật. Như vậy, cảnh vật được miêu tả qua đôi mắt và trái tim rung cảm của nhà thơ. Mùa thu tới, nhà thơ nhìn hoa trước sân, nghe tiếng chim kêu trên trời vẳng xuống mà trỗi dậy cả một niềm xót xa, lặng lẽ mà như nẫu ruột, chết lòng. Chiều sâu của tâm hồn thi sĩ lắng đọng vào chiều sâu của câu thơ là vậy. Trước cảnh thu và hồn thu khiến thi hứng dạt dào, nhà thơ toan cắt bút, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, bỗng nhiên thấy thẹn với ông Đào nên đành thôi Nhân hứng cũng vừa toan cắt bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Nhà thơ thẹn nỗi gì vậy? Thẹn vì tài thơ thua kém hay thẹn vì mình chưa có được nhân cách trong sáng và khí phách cứng cỏi như Đào Tiềm? Lôgic của bài thơ là từ cảnh đến tình, từ tình đến người. Lời thơ trong câu kết có cái gì đó lửng lơ mà kín đáo, do đó càng làm tăng thêm chất suy tư của cả bài thơ. Nguyễn Khuyến miêu tả cảnh thu ở quê hương mình, từ màu trời, ngọn trúc, mặt nước, ánh trăng đến chùm hoa trước giậu, tiếng ngỗng trên không.. để dẫn đến cảm xúc đầy suy tư ẩn chứa trong cảnh vật. Thông qua đó, ông gửi gắm tâm trạng xót xa, tiếc nuối trước tình trạng đất nước rơi vào tay giặc ngoại xâm, quá khứ tốt lành không còn nữa mà mình thì lực bất tòng tâm. Thu vịnh là một bài thơ hay, góp phần khẳng định tình yêu quê hương đất nước đằm thắm trong thơ Nguyễn Khuyến, thể hiện qua tình yêu thiên nhiên tha thiết. Trình độ nghệ thuật của bài thơ đã đạt đến mức điêu luyện, tinh tế, không dễ mấy ai sánh được. Xem thêm Đăng bài phân tích kiếm tiền Cách kiếm tiền từ giao dịch bitcoin Admin và Zero thích bài này. Last edited by a moderator 22 Tháng mười 2021 văn mẫu
I. Nguyễn Khuyến – nhà thơ trữ tình làng cảnh Phải nói rằng, trong số hơn 400 bài thơ chữ Nôm và chữ Hán để lại cho đời, Nguyễn Khuyến đã dồn rất nhiều tài năng và tâm huyết vào các sáng tác trữ tình. Xoay quanh đề tài nông thôn, tác giả đã thể hiện thành công bức tranh thiên nhiên, con người và cuộc sống nơi đây. Qua đó, giải bày một cách kín đáo những nỗi niềm băn khoăn, những tâm sự lớn của lòng mình. Chiều sâu tư tưởng kết hợp hài hòa với nghệ thuật thơ sáng tạo, điêu luyện đã đưa những thi phẩm áy lên một vị thế xứng đáng trong thi đàn dân tộc. Do đó, trải qua nhiều biến thiên của thời gian, tên tuổi của Nguyễn Khuyến cùng với những sáng tác ấy vẫn giữ vững ngọn lửa ấm áp trong lòng công chúng yêu thơ. Đã từng đỗ đạt cao, từng ra làm quan hơn 10 năm, thế nhưng bến neo đậu duy nhất cho Tam Nguyên Yên Đỗ trong cuộc đời ông có lẽ chỉ có thể là quê cha, làng Yên Đỗ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Đã từng gắn bó, in đậm trong hồi ức tuổi thơ tác giả, nay làng quê chiêm trũng nghèo lại theo ông trong suốt phần đời còn lại. Điều này đã tạo nên một vốn hiểu biết sâu rộng và tình cảm đẹp đẽ của nhà thoa với cảnh vật nông thôn. Suốt cuộc đời mình, Nguyễn Khuyến luôn sống chan hòa, gần gủi, chân tình với những người nông dân nghèo khổ. Ông xứng đáng là nhà thơ của nông thôn với những bài thơ miêu tả tinh tế, chân thực những vẻ đẹp bình dị của nông thôn, đúng như lời nhận xét của Nguyễn Lộc ” Trước Nguyễn Khuyến, trong văn chương Việt Nam thỉnh thoảng có những tác phẩm viết về nông thôn, những hình ảnh của nông thôn trong văn học nói chung còn mờ nhạt. Có thể nói, với Nguyễn Khuyến lần đầu tiên nông thôn Việt Nam mới thực sự đi vào văn học “. Con người quê ông không chỉ phải đốí đầu với cái đói, cái nghèo, mà còn luôn luôn bị đe dọa bởi các thiên tai dữ dội bất ngờ kéo đến Quai Mễ Thanh Liêm đã vỡ rồi Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi Gạo năm ba bát cơ còn kém Thuế một hai nguyên dáng chữa đòi. Nuớc lụt Hà Nam Những trận lụt tai hại cùng với chính sách sưu cao, thuế nặng đã đẩy những người dân nơi đây đến độ cùng quẫn, buồn đau. Câu thơ như một tiếng thở dài, một sự cam chịu, chấp nhận vào cơn bão của cuộc đời. Nhà thơ không thi vị hóa sự việc, ngược lại đã được thể hiện rõ nét và chân thực tâm lý, nỗi lo lắng của người nông dân. Tài tình hơn, cũng miêu tả sự tàn phá dữ dội của cơn lũ nhưng Nguyễn Khuyến đã có phát hiện rất mực tinh tế Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách Làn sóng long bong vỗ trước nhà. Nuớc lụt Hà Nam Từ một điểm nhìn khác, tác giả đã phát hiện ra một sự vận động khác lạ của cảnh cảnh vật xung quanh “thấp thoáng”, “long bong” đều là những từ láy rất gợi tình khiến cho mọi vật dường như cũng chập chờn, luợn sóng trong cơn lũ. Trước khi nước rút xuống chính nhà thơ đã tìm ra một sự thích thú xua tan nỗi lo âu trong quãng thời gian đằng đẵng. Là một bậc Đại Nho danh tiếng nhưng Nguyễn Khuyến không tự đối lập mình với mọi người như Nguyễn Công Trứ. Trái lại, tấm lòng thi nhân luôn tìm đến với những cảnh sống chật vật, eo hẹp của lớp dân quê dân cày, luôn lấy hồn mình để hiểu hồn ngưòi. Cảnh sinh hoạt nông thôn khó khăn đã đựoc nhà thơ nêu bật trong “Làm ruộng” Phần thuế quan thu, phần trả nợ Nửa công ở đợ, nửa thuê bò Sớm trưa dưa muối cho qua bữa Chợ búa dầu chè chẳng dám mua. Có được mảnh ruộng để cày cuốc, gieo hái đã khó với người nông dân lắm rồi, lại thêm những khoản thuế má nợ nần, tiền công, tiền thuê như gánh nặng trĩu đè cả hai vai người lao động và để tiếp tục sống, họ đã phải lo lắng chạy vạy khắp nơi. Tuy nhiên đời sống của người nhân nghèo không nhờ thế mà thảnh thơi, an nhàn. Bởi sau một vụ mùa, người nông dân bị ám ảnh, lo sợ mất mùa lụt lội Năm nay cày cấy vẫn chân thua Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa. Chốn Quê Nhưng cuộc sống ấy cũng không thiếu đi nét dịu dàng với cái vui của hội hè ngày tết Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt Cảnh Tết Dẫu chỉ là một chút vui mọn trong những ngày rộn ràng đón lễ tết nhưng dường như không ai để tâm đến cái nghèo cái khổ nữa. Mọi nhà rộn rịp cùng chung nồi bánh chưng truyền thống, âm thanh vui vẻ, xôn xao đã xua đi bầu không khí ảm đạm của cuộc sống khốn khó thường ngày. và chính nhà thơ cũng đang say sưa giữa không khí chan hòa tình thân ái xóm làng Chú Đáo xóm đình lên với tớ Ông Từ lại cùng ta Cảnh Lên Lão Chẳng may gặp năm mất mùa thì tết nhất cũng u ám thê thảm hơn Dở trời mưa bụi còn hơi rét Nếm rượu tường đều đuợc mấy ông? Hàng quán người về nghe xao xác Nợ nần năm hết hỏi lung tung Chợ Đồng Cái “xao xác” của phiên chợ nghèo cũng chính là xao xác trong lòng nhà thơ. Gắn bó với con người nơi đây, bản thân tác giả cảm thấy xót xa trước cảnh sống nghèo nàn mà chính mình cũng không thể làm gì hơn. Đọc những vần thơ trên của Nguyễn Khuyến, hình ảnh người nông dân hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết, trước mắt chúng ta cuộc sống xơ xác tiêu điều, nghèo khổ đến mức nghẹt thở của người nông dân vùng chiêm trũng chưa lúc nào lại ám ảnh đến vậy. Như một thước phim quay chậm với những góc quay cận cảnh có, viễn cảnh có… Mỗi bài thơ viết về người nông dân của Yên Đỗ đã cho ta cái nhìn đa chiều, trọn vẹn, đầy đủ hơn nó không chỉ là cơ cảnh của riêng người nông dân Bắc Bộ mà còn là điển hình cho cả một tầng lớp của dân tộc ta lúc bấy giờ. Qua đó, ta thấy cái nhìn độ lượng của tấm lòng nhân hậu, chan chứa tình yêu thương của cụ Tam Nguyên với mọi người xung quanh. Cuộc sống đói khổ không trói được tấm lòng của nhà thơ, không thể tầm thường hóa nhân cách đẹp đẽ, cao khiết của một bậc Đại Nho như thế. Chính vì luôn trân trọng tình cảm của mọi người, từ người anh vợ, ông hàng thịt đến anh thợ rèn… Cho nên đối với những người bạn thân thiết, với tri kỉ của mình, Nguyễn Khuyến càng chân thành trân trọng hơn. Cao Bá Quát từng nói “Xưa nay nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó ở đời không gì bằng sự gặp gỡ”. Nên khi tìm được người hiểu mình, tìm thấp được sự tri âm trong tình bạn Nguyễn Khuyến đã rất chân thành đón bạn Đã bấy lâu nay bác tới nhà Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa. Áo sâu nước cả, khôn chài cá Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà. Cải chửa ra cây, cà mới nụ Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa. Đầu trò tiếp khách trầu không có Bác đến chơi đây ta với ta. Bạn đến chơi nhà Phảng phất trong “Bạn đến chơi nhà” có những điểm tương tự như “Khách chí” khách đến của thi nhân Đỗ Phủ xưa. Thi nhân Đời Đường đã mượn cái nghèo của mình để nêu bật tính bầu bạn cao đẹp Mâm cơm vì chợ xa nên thiếu món ăn Rượu vì nhà nghèo chỉ có thứ củ chưa lọc Ta hãy cùng ông lão bên hàng xóm đối ẩm Qua hàng rào hết rượu sẽ lấy thêm. Nguyễn Khuyến đã khẳng định chắc chắn tình bạn tự nó đã là một bữa tiệc tinh thần không cần đến của cải vật chất xa hoa, phù phiếm. Chỉ cần hiểu nhau, có thể sẻ chia bầu tâm sự cho nhau ấy đã là “bạn quý” rồi. Hay như Ức Trai đã nói với bạn “Hai bữa mừng nhau một mặt không, vui sướng nhìn nhau cũng đủ no rồi!”. Tình bạn nồng thắm gắn bó của Nguyễn Khuyến đã lí giải cho sự đau đớn tột cùng của nhà thơ khi đột ngột hay tin bạn mình qua đời “Khóc Dương Khuê” Bác Dương thôi đả thôi rồi Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta. Sự ra đi đường đột của người bạn thân khiến tác giả sửng sốt bàng hoàng, nỗi đau quá lớn, nhà thơ chỉ kịp than lên như muốn níu giữ lại nhưng đành chấp nhận thực tế đau đớn ấy. Nghĩ đến bạn bao nhiêu kỷ niệm trong ký ức giờ đây như sống lại hàng chục năm của những gì gắn bó giữa nhà thơ và bạn ùa về. Tình bạn ấy sẽ còn sống mãi trong lòng nhà thơ và mãi vẹn nguyên, đẹp đẽ trong tâm hồn độc giả. Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Qua những bài thơ trữ tình trong trẻo, tác giả dựng nên một bức tranh thiên nhiên nông thôn rất tinh tế, xinh xắn. Yên Đỗ đã khéo thu được những nét điển hình của buổi trưa thôn quê vào trong những câu thơ thật gọn Chuông trưa vẳng tiếng người không biết Trâu thả sườn non ngủ gốc cây. Nhớ cảnh chùa Đọi Một bức tranh quê yên ả, thanh bình. Hình ảnh chú trâu hiền lành đang nghỉ ngơi trên sườn cỏ xanh tốt dưới bóng mát của cây xanh đã thu lấy mảnh hồn của nông thôn Việt Nam. Quê hương ai cũng có những nét riêng và trong tâm trí nhà thơ, buổi trưa hè ấy đã sưởi ấm cả một cõi xôn xao trong lòng. Đôi khi chỉ là một thoáng rùng mình trong cái rét đầu năm cũng làm ta xao xuyến Dở trời mưa bụi còn hơi rét Chợ Đồng Và bồi hồi xúc động trước cảnh nước lụt tràn ngập mênh mông Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi Kỷ niệm sống chung với lũ ngay từ thuở bé đến khi lớn khôn vẫn vẹn nguyên. Chỉ ở vùng đồng chiêm trũng như quê Yên Đổ mới có những hình ảnh sống động như vậy. Cảnh quê hương có lúc là chốn vườn cũ với những cảnh vật bình dị đơn sơ Vườn Bùi chốn cũ Bốn mươi năm lụ khụ lại về đay Trông ngoài sân đua nỡ mấy chòi cây Thú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế Bành Trạch cầm xoang ngâm trước ghế Ôn Công rượu nhạt chuốc chiều xuân Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn Tình thương hải tang điền qua mấy lớp Người chớ giận Lỗ hầu chẳng gặp Như lơ phơ tóc trắng lại làm chi Muốn về sao chẳng về đi? Bùi Viên cựu trạch ca – dịch Cái cảnh chốn cũ ấy đã làm lay động biết bao trái tim, bao tâm hồn của người trong cuộc. Cảnh vật nhỏ bé, chân quê có vẻ như quê mùa ấy mới đúng là cảnh quê ông. Không cần tô vẽ màu mè, đơn giản hơn, chỉ phác họa những đường nét tinh túy nhất của hồn quê, ấy là cái tài của Nguyễn Khuyến. Những hình ảnh dân dã qua lăng kính của thi nhân trở nên tinh tế, lấp lánh mà chân thực, sống động vô cùng. Nhưng có lẽ nổi tiếng nhất và cũng là tiêu biểu nhất cho vùng quê chiêm trũng Bắc Bộ chính là chùm ba bài thơ thu “Thu Vịnh”, “Thu Điếu” và “Thu ẩm”. Mùa thu ở Miền Bắc với tiết trời trong mát dịu nhẹ như một thiên sứ hiền lành hòa giải giữa cái oi nồng của mùa hạ và mưa dầm gió bắc của mùa đông. Tâm hồn con người vì thế mà góp phần thư thái, nhẹ nhõm hơn. Và bởi lẽ “Thu là thơ của đất trời. Thơ là thơ của lòng người” cho nên với các nhà thơ mùa thu là mùa của cảm xúc, của những nổi niềm thương nhớ không nguôi. Tuy nhiên, vì khoảng cách thời đại, thi phẩm thu của các thi nhân cũng khác nhau rất nhiều. Thơ thu Nguyễn Khuyến là thơ của làng cảnh Việt Nam đậm đà chân thực dù có gửi gắm ít nhiều tâm sự. Trong khi đó các nhà thơ mới như Huy Cận, Xuân Diệu hay Lưu Trọng Lư chỉ mượn cảnh thu, sắc thu, màu thu để gửi gắm tâm trạng riêng tư. Đương thời Nguyễn Khuyến cũng đã sáng tác nhiều bài thơ thu bằng chũ Hán như “Thu nhiệt”, “Y thu”. Thế nhưng nức danh nhất vẫn chính là chùm ba bài thơ thu ấy. Mỗi bài một vẽ hợp lại một bức tranh thu toàn bích, xứng đáng đạt ngôi vị quán quân trong những bức tranh phong cảnh làng quê Việt Nam thời Trung đại. Chùm thơ thu mang đậm hồn quê xứ sở. Tất cả những ai đã từng gắn bó với một vùng quê đất Việt, hẳn không thể kìm lòng xúc động trước những cảnh vật thân thuộc đến thế. Cảnh nông thôn bình thường, thân mếm với năm gian nhà cỏ đơn sơ nhưng vô cùng gần gũi Năm gian nhà cỏ thấp te te Ngõ tối đen sâu đó lập lòe Thu ẩm Nơi thi nhân đang uống rượu làm thơ chỉ là ngôi nhà nhỏ đơn sơ, bình dị, thôn dã được lợp bằng mái rạ thấp te te. Nếu đó là thư phòng tao nhã hay lầu son gác tía hoa lệ thì bài thơ đã không sống đến tận hôm nay. Phải là nhà cỏ mới là vùng quê Bắc Bộ. Vùng quê chiêm trũng ấy còn có những chiếc ao bèo nhỏ nhắn trước nhà. Là nơi chứa đựng những dòng nước mát trong Ao thu lãnh lẽo nước trong veo Thu điếu Và dưới ánh trăng mờ ảo đêm khuya, nó như gợi tình gợi ý hơn với những chuyển động lạ kỳ Làng ao lóng lánh bóng trăng loe Thu ẩm Nhà thơ đã nhìn trăng qua áo mới có vẽ đẹp lóng lánh như thế. Trăng từ trong áo hắt ánh sáng lên vạn vật xung quanh, tạo ra những chùm sáng “loe” như thế. Một đề tài mòn cũ, đã được Nguyễn Khuyến thổi vào một hơi thở mới, một sức sống mới đầy sáng tạo. Những con đường nho nhỏ, những bụi tre khóm trúc thực sự là những hình ảnh tiêu biểu, đặc trưng của vùng quê Bắc Bộ Cần trúc thơ phơ gió hắt hiu Thu vịnh Ngõ trúc quanh co khách vắng teo Thu điếu Cành trúc như mang trong mình linh hồn, sức sống. Những búp lá non điểm xuyết trên cành trúc cong cong như một chiếc cần câu rất mềm mại, thanh thoát, đầy chất tạo hình. “Cần trúc” đã lột tả được cái hồn, cái thần của cảnh vật, là hình ảnh quen thuộc gợi lên phong vị riêng của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những con đường nho nhỏ quanh co dẫn vào từng mái nhà cỏ thật duyên dáng và xinh xắn. Mùa thu đến mang theo từng cơn gió lạnh hắt hiu với màn sương khói hư ảo. Tất cả hòa quyện đan xen vào nhau tạo nên một hơi thu quyến luyến. Ấn tượng nhất chính là bầu trời trong xanh, cao vòi vọi mà chỉ duy vùng Bắc Bộ mới có vào tiết thu Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao Thu vịnh Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Thu điếu Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt Thu ẩm Ba lần Nguyễn Khuyến miêu tả gam màu xanh tuyệt đối ấy. Từ “xanh ngắt” không chỉ gợi sắc màu cụ thể mà còn gợi chiều sâu vòi vọi, chót vót của bầu trời. Không gian xung quanh dường như thoáng đãng, tươi sáng và thanh thoát hơn nhiều. Đó là vẻ đẹp thật sự của bầu trời mùa thu ở nông thôn Việt Nam, không phải vừa mới xuất hiện mà vốn đã có từ trước nhưng bây giờ mới được đem vào thơ, được Nguyễn Khuyến gạt bỏ những ước lệ tượng trưng. Không chói chang như sắc xanh trời hạ, màu xanh này gợi sự thanh nhẹ thư thái của lòng người. Thi sĩ Xuân Diệu khi miêu tả sắc thu cũng từng viết Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá Thơ duyên Đây là gam màu gợi sự sang trọng, diểm lệ, dịu mát và tươi tắn khác với sắc màu của nông thôn Việt Nam. Nhưng không vì thế mà giá trị của hai gam màu ấy bị sụt giảm, trái lại càng làm phong phú bức tranh thu trên thi đàn dân tộc. Một chiếc ao bèo, một hàng giậu thưa, một con ngõ nhỏ, những khóm tre bụi trúc, chiếc thuyền nan bé tẻo teo, biết bao cảnh vật thật bình dị mà đẹp đến nao lòng, gợi nhớ khôn tả. Hơn nữa, bằng tài nghệ bậc thầy trong sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến, những câu thơ như linh động hơn, co duỗi nhịp nhàng. Ngôn ngữ trong sáng, vô cùng mộc mạc bình dị, không hề thấy dấu vết của sự gọt giũa, công phu nhưng lại giàu sức gợi. Người đọc có cảm giác trong thơ ông có sự hôn phối, hòa hợp giữa ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân. Kết hợp với khả năng quan sát vô cùng nhạy bén và tinh tế nhưng biến thái tinh vi của tạo vật Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo Thu điếu Thi nhân không đem đến cho ta những điều hoàn toàn mới lạ mà chỉ nhỏ nhẹ nhắc ta những điều thường gặp một cách thấm thía và sâu sắc hiếm có. Ông cha ta thường nói “Thi dĩ ngôn chí” quả không sai. Cảnh vật thiên nhiên không bao giờ chỉ là sự minh họa giản đơn cho tài năng của người nghệ sĩ mà quan trọng hơn những hình ảnh thơ là chiếc chìa khóa để chúng ta mở cửa tâm hồn tác giả. Giãi bày bộc lộ tâm sự cũng là một nội dung lớn trong thơ trữ tình Nguyễn Khuyến. Trong ba bài thơ thu, nhà thơ Yên Đổ đã bôc lộ kín đáo những tâm sự u uất trong lòng Hai câu kết bài “Thu vịnh” là sự cố nén tủi thẹn về chính mình Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào “Nhân hứng” rồi lại “Nghĩ ra” đó là sự đối lập giữa chủ quan và khách quan, giữa ước mong với hiện thực, đó là một sự bất như ý của con người. Nhà thơ nói “Nhân hứng” là ca ngợi mùa thu đẹp và nên thơ. Thế nhứng “toan cất bút” làm thơ rồi lại “thẹn”. Thẹn với Đào Tiềm một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Tấn. Ông nổi tiếng vì thơ hay là một lẽ, lẽ khác còn nổi tiếng vì việc sau một năm làm quan ở Bành Trạch đã rũ áo từ quan bởi không chịu vì ba đấu thóc mà phải cúi lưng. Nguyễn Khuyến tự thấy thẹn là bởi tâm hồn ông đang mang nặng nổi u hoài, bởi ông chưa thực sự hài lòng vì mình vẫn rất xót xa. Ông cáo quan về ở ẩn là vì bất lực trước vận nước. Tâm sự ấy vừa đáng thương vừa đáng trọng. Tấm lòng nhà thơ luôn hướng về nhân dân đất nước. Tấn bi kịch nhàn thân mà chẳng nhàn tâm ấy sẽ mãi theo ông trong những năm cuối đời từ khi trở về vườn Bùi chốn cũ đến khi qua đời. Ở “Thu Vịnh” và “Thu điếu” còn thi thoảng vang lên đôi chút âm thanh của tiếng ngỗng lạc đàn, tiếng lá rơi, tiếng cá đớp động dưới chân bèo. Đến “Thu ẩm”, tịnh không có một tiếng động nào dù chỉ thoảng qua mà đó là cuộc sống nông thôn, sống giữa bao nhiêu con người vùng quê. Một mình uống rượu để giải sầu nhưng đã uống đến say nhòe mà nổi sầu muộn đâu có vơi. Càng say càng tĩnh, càng thấm thía nỗi lòng u uất. Tự cho mình là túy ông, nhưng đã bao giờ Nguyễn Khuyến say vì rượu Túy ông ý chẳng say vì rượu Say vì đau nước thẳm với non cao Uống rượu ở vườn Bùi Bởi thế “ Mắt lão không gầy cũng đỏ hoe” kia không ngoài nét buồn vì cảnh nước mất nhà tan, vì bất lực của bản thân mình. Lựa chọn lui về sống ẩn dật nhưng tấc lòng của Nguyễn Khuyến vẫn luôn hướng đến vận mệnh của đất nước. Ông cảm thấy tuỉ thẹn vì mình là một trí thức đại thần mà đành bất lực trước thời cuộc Sách vở ích gì cho buổi ấy Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già Ngày xuân răn con cháu Và cho đến khi nghĩ là mình sắp từ giã cuộc đời, trong bài “Di chúc” ông vẫn trăn trở Ơn vua chưa chút báo đền Cúi trong hổ đất, ngữa lên thẹn trời Một con người luôn tận tụy vì nước vì dân như cụ Tam Nguyên thật đáng quý. Làm quan thì thanh liêm, cương trực, thẳng thắn. Lúc chỉ là một kẻ thường dân vẫn luôn dõi theo vận mệnh dân tộc. Tâm sự ấy suốt cuộc đời Nguyễn Khuyến luôn mang theo và mãi mãi như tiếng cuốc kêu canh khuya Khắc khoải sầu đưa giọng lững lơ Ấy hồn thực đé thác bao giờ Năm canh máu hảy đem hè vắng Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ Có phải tiệc xuân mà đén gọi Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ Thâu đem ròng rã kêu ai đó Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ. Cuốc kêu cảm hứng Qua điển cố vua Thục mất nước, hóa thành chim cuốc kêu thán đêm ngày, bài thơ đã khơi gợi tâm sự đau xót trước cảnh vong quốc. Mượn hình ảnh con cuốc kêu hè, nhà thơ đã cực tả nỗi đau rỉ máu máu chảy, nổi buồn nát ruột tan hồn hồn tan của chính bản thân mình trước cảnh điêu linh của nước tổ. Tiếng kêu ấy cứ vang mãi trong đêm khuya, cô độc và lẻ loi. Điều này càng làm tăng gấp bội nỗi buồn đau của Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu đã rất hiểu tâm sự ấy…”chúng ta thường nghe da diết, ám ảnh, chì chiết một tiếng chim kêu có sắc đỏ, khóc nức nở, gào thảm thiết, tiếng kêu có máu, tiếng huyết kêu mất nước! Nhớ nước” thơ văn Nguyễn Khuyến. Sức lay động lòng người của tiếng lòng nhà thơ cứ thế trường tồn mãi với thời gian. Cảm phục, trân trọng biết bao những tấm lòng trong thiên hạ! Có lẽ điều an ủi nổi đau đớn cửa Nguyễn Khuyễn ấy là thái độ bất hợp tác của ông với quân giặc. Với ông, danh vị, lợi lộc chỉ là những thứ phù phiếm, phỉnh phờ, lừa gạt của bọn tay sai. Vì thế, ông lại lui về quê, từ bỏ chốn quan trường nhiễu nhương, để nêu cao khí tiết. Thái độ ấy ông thường hay biện bạch qua hình ảnh “ mẹ Mốc” tuy nhan sắc tuyệt trần nhưng giả vờ điên dại để dành trọn tâm tư cho chồng con xa vắng So danh giá ai bằng mẹ Mốc Ngoài hình hài gấm vốc chẳng thèm ra Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nhòa Làm thế để cho qua mắt tục. Mẹ Mốc Khi Nguyễn Khuyến tự ví mình như một vương phu nghèo đói bị người ta cám dỗ nhưng vẫn giữ kiên trinh với người cố phu Vốn xưa cha mẹ dặn lời Từ hôn chi để kẻ cười người chê Mụ hỏi mụ thương chi thương thế Thương thì hay nhưng kế không thay Thương thì gạo vải cho vay Lấy chồng thì gái già này xin van. Gái góa Tựu chung lại, những tâm sự, nỗi lòng của nhà thơ dù rất kín đáo nhưng đã thể hiện sâu sắc cá tính của bản thân. Trước thời cuộc điên đảo, con người ta có thể không trực tiếp phục vụ đất nước nhưng vẫn hoàn toàn có thể bộc lộ những tình cảm, tấm lòng với đời sống và con người trong đó. Như vậy, với những bức tranh sinh động, tinh tế về thiên nhiên, làng mạc, con người nơi thôn dã và tâm sự trước thời vận đất nước, thơ trữ tình của Nguyễn Khuyến đã chiếm một vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ. Đa dạng về nội dung, phong phú, đặc sắc về hình thức thể hiện, những bài thơ trong trẻo chân tình sẽ sống mãi trong lòng chúng ta. Và thơ văn của Nguyễn Khuyến đã phản ánh đúng con nhười thi nhân giản dị, tự nhiên, thâm trầm, tinh tế và sâu sắc. Quả là “ Một người nghệ sĩ chân chính trước hết phải là một con người chân chính”. Trải qua bao thăng trầm của thời đại, đến nay chúng ta vẫn thấy bồi hồi và cảm phục trước một con người như thế. II. Nguyễn Khuyến nhà thơ trào phúng Thời kỳ văn học trung đại kết thúc với thành tựu cuối cùng rất rực rỡ của hai cây bút trào phúng Tú Xương – Nguyễn Khuyến. Nếu Tú Xương mang đến cho người đọc những câu thơ trào phúng cay độc, bốp chát thì Nguyễn Khuyến lại mang đến một hồn thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà thâm thúy. Bằng những sáng tác thấm đẫm chất trào lộng, Nguyễn Khuyến thực sự đã bộc lộ được tài năng trào phúng bậc thầy của mình. Nhắc đến cụ Tam Nguyên Yên Đỗ có lẽ điều người ta nghĩ đến trước hết chính là những bài thơ trữ tính thật hay, thật tinh tế viết về thiên nhiên vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ, về tình cha con, vợ chồng, bè bạn, xóm giềng rất chân thành, thắm thiết. Nguyễn Khuyến là nhà thơ số một của làng cảnh Việt Nam. Cảnh sắc trong thơ ông thanh sơ, đẹp và phơn phớt một sắc buồn từ cõi lòng mang tâm sự thời thế. Chùm ba bài thơ thu đã trở thành “quán quân” về thơ thu Việt Nam xưa nay chính vì lẽ đó. Hơn thế Nguyễn Khuyến còn có thể được xếp vào hàng ngũ những nhà thơ hàng đầu đất Việt khi viết về tình bạn, tình tri âm tri kỷ Nguyễn Khuyến và Dương Khuê như trong thi phẩm Khóc Dương Khuê” đã thể hiện liệu có còn gì sâu sắc hơn? Tóm lại, nói Nguyễn Khuyến là nhà thơ trữ tình xuất sắc chắc hẳn chẳng có gì phải bàn cãi. Thế nhưng không dừng lại ở đó, Nguyễn Khuyến đã thật sự gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc bởi những vần thơ mang tiếng cười rất đặc sắc nhẹ nhàng, kín đáo mà lại thâm thúy, chua cay. Tiếp cận với những sáng tác trào phúng của Nguyễn Khuyến ta mới thấy hết cái đặc sắc, cái giọng điệu riêng của ngòi bút trào phúng này. Phải thấy rằng đối tượng trào phúng trong thơ Yên Đỗ hết sức phong phú, đa dạng. Ông cười bọn quan lại tham quan vơ vét hại dân, cười bọn hãnh tiến nhố nhăng, cười cái bi hài của nền Hán học cuối ngày tận số, cười cả Vua, cả Tây và cười cả chính mình. Chính vì thế mà tiếng cười mang những sắc thái khác nhau. Khi để bông đùa cùng bạn, tiếng cười Nguyễn Khuyến thật hóm hỉnh, thâm mật, duyên dáng Đã bấy lâu nay bác tới nhà Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa Ao sâu nước cả, khôn chài cá Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà Cải chửa ra cây, cà mới nụ Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa Đầu trò tiếp khách trầu không có … Bạn đến chơi nhà Với sự hào hiệp và tấm lòng chân tình của mình, nhà thơ muốn dành những gì sang trọng nhất, ngon lành nhất để tiếp đãi bạn. Thế nhưng ước muốn đó không thể thực hiện được, oái ăm thay cái gì cũng có mà thành ra không có gì vì tất cả đang ở dạng “tiềm năng” còn non tơ nên không thể thu hái được, đến cả miếng trầu làm đầu câu chuyện cũng không có nốt. Thật ra tác giả đang khoe sự giàu sang hay đang giải bày sự thiếu thốn? Có lẽ là cả hai song điều đáng nói ở đây là nhà thơ đã sử dụng bút pháp cường điệu hóa rất đặc sắc, sự thiếu thốn đạm bạc của gia cảnh được cường điệu một cách tối đa và sự giàu có sang trọng cũng cường điệu không kém với mục đích đùa vui với bạn đồng thời tỏ rõ được tấm chân tình của mình. Chính sự đối lập giữa giàu sang và đạm bạc trong cái nhìn mang tính phóng đại, hài hước của nhà thơ đã tạo ra sự hài hước rất riêng của Nguyễn Khuyến. Tuy nhiên, sắc thái đẫm nét nhất trong tiếng cười của Nguyễn Khuyến chính là cười tâm huyết, cười ra nước mắt, cười với giọng nhẹ nhàng mà không kém phần chua cay. Tiếng cười ở đây không phải để đùa vui nữa mà là để phê phán, để tố cáo hiện thực xã hội. Đối tượng trước hết trong xã hội cần phải lên án, vạch trần chính là bè lũ thống trị, bọn tham quan Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông Nó lại lôi ông đến giữa đồng Lấy của đánh người, quân tệ nhỉ Xương già da cóc có đau không? Bây giờ trót đã sầy da trán Ngày trước đi đâu mất mảy lông Thôi cũng đừng nên ki cóp nữa Kẻo mang tiếng dại với phường ông. Hỏi thăm quan tuần mất cướp Bằng những câu hỏi thăm rất đỗi tận tình, một người quan tuần bị mất cướp lại còn bị kẻ cướp đánh cho, nhà thơ đã khiến chúng ta bật cười bởi chính giọng điệu “tử tế” ấy. Nhà thơ đã “hỏi thăm” đã nói những điều lẽ ra theo phép lịch sự thông thường thì không nên hỏi, không nên nói, hay có hỏi, có nói thì phải hỏi, phải nói một cách tế nhị, đằng này ông lại hỏi thẳng, nói thẳng. Những câu thơ cứ như những mũi dao nhọn cứ ngoáy mãi vào một vết thương nên càng ngoáy càng đau. Ban đầu nhà thơ còn nói ỡm ờ, chế dễu nhưng về sau thì đả kích thật sự. Ông quan “đáng kính” chỉ như một món đồ để cho bọn cướp lôi từ nơi này sang nơi khác lại còn bị đánh cho “sầy da trán”, thật là đau xót! Nhà thơ còn tỏ ý thông cảm với tuổi già của tên quan để rồi sau những lời hỏi han sức khỏe ấy, nhà thơ thốt ra lời khuyên “thôi cũng đừng nên ki cóp nữa”. Nghe thật tử tế làm sao! Thật ra cả bài thơ tác giả chỉ nhắm một mục đích duy nhất là cho người đọc bông đùa thỏa thích trước sự “xui xẻo” của tên quan để rồi chốt lại lời châm biếm đả kích gay gắt về cái thói tham lam, hà tiện, bủn xỉn của không chỉ tên quan tuần mà các tầng lớp quan lại thời bấy giờ. Mượn thành ngữ “ki cóp cọp ăn’ của dân gian xưa, Nguyễn Khuyến đã giúp ta hiểu sâu sắc về bộ mặt thật của bọn quan lại đương thời, những “nạn nhân” bị cướp thứ tài sản đã đi cướp! Hiện thực xã hội xấu xa cần phải vạch trần không chỉ ở bè lũ quan lại mà ở cả hiện tượng lố lăng trong buổi giao thời. “Hội tây” được viết để lên án hiện tượng ấy. Mở đầu bài thơ Nguyễn Khuyến giới thiệu ngay khung cảnh nhộn nhịp của ngày hội Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo. Quả là ngày hội lớn của người Pháp trên đất Việt, có âm thanh rộn rã của tiếng pháo, có màu sắc lấp lánh của đèn treo, cờ kéo… Cả con người trong ngày hội ấy cũng rất háo hức Bà quan tranh ngất xem bơi trải Thằng bé lom khom ghé hát chèo Cậy sức, cây đu nhiều chị nhún Tham tiền, cột mỡ lăm anh leo. Bằng những hình ảnh đậm sắc thái tạo hình, người đọc dễ dàng tưởng tượng không khí vui vẻ của ngày hội, thế nhưng cũng chính bằng những cách miêu tả ấy, giọng điệu ấy đã tỏ rõ lên án thói mị dân, nhố nhăng của bọn thống trị, quan Tây và quan Ta. Bà quan thật nực cười trong cái thế “tênh nghếch” thăng bé thì nom thật tội nghiệp trong điệu bộ “lom khom”. Chỉ hai hinh ảnh đặt đối xứng đã lột trần thực tại xót xa của cảnh đất nước trong cảnh nô lệ, dưới gót giày của lũ xâm lược. Đau xót hơn, những con người nô lệ ấy không nhận thức được nỗi nhục mất nước lại còn cuốn vào những trò chơi mà bọn thực dân Pháp bày ra để mị dân. Nhận thức rỏ điều đó, từ chổ gián tiếp đã kích, Nguyễn Khuyến đã chỉ thẳng Khen ai khéo vẻ trò vui thế Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêu! Nhà thơ như đang đứng từ xa, từ chối việc nhập cuộc ngày hội nhộn nhịp để miêu tả không khí náo nhiệt của ngày hội, nhận ra nỗi nhục của nô lệ để rồi cảnh tỉnh cho người dân Việt Nam đang bị thói mị dân làm cho mờ mắt. Có lẽ hiếm có bài thơ nào mà thái độ châm biếm của Nguyễn Khuyến được thể hiện trực tiếp đến như vậy. Xã hội đổi thay, những kỳ thi Hán học như “những phiên chợ chiều đã tàn”. Để chế giễu cảnh thi nửa mùa – nửa Tây nửa Ta – lúc bấy giờ chẳng ra gì, Nguyễn Khuyến đã mượn hình ảnh “tiến sĩ giấy” – một nhóm đồ chơi yêu thích của trẻ em ngày trước, qua đó nhằm miêu tả những “tiến sĩ thật” Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai Cũng gọi ông nghè có kém ai Điệp từ “cũng” kết hợp nghệ thuật liệt kê cho thấy những tiến sĩ thời bấy giờ cũng có đầy đủ từng thứ một những thứ áo xiêm diêm dúa. Họ cũng được gọi là những “ông nghè” chẳng kém ai, thế nhưng học vị danh giá, vẻ vang ấy thực chất cũng chỉ là một mảnh giấy có đóng dấu son đỏ lòe loẹt của triều đình Mãnh giấy làm nên thân giáp bảng Nét son điểm rõ mặt văn khôi Hơn thế nữa, kẻ học vị tiến sĩ, ông nghè cao quý giờ chẳng còn chút giá trị, nó mới “nhẹ” mới đơn giản làm sao khi có thể mua được bằng tiền. Cuộc mua bán này vô cùng có lợi “cái giá khoa danh ấy mới hời” bởi sự nghiệp quan trường còn có biết bao những cuộc mua bán đổi chác khác. Tất cả bọn chúng chỉ là một lũ ngu dốt, bất tài, vô dụng leo lên được vị danh giá thực chất chỉ nhờ có đồng tiền. Tiếng cười trào phúng cất lên hóm nhẹ mà càng ngẫm càng thấy sâu cay. Bằng nghệ thuật đột giáng, Nguyễn Khuyến đã đem lại sự rẽ ngoặt bất ngờ trong ý thơ Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi Miêu tả món đồ chơi để đã kích đồ thật nhưng đồ thật chỉ hóa ra như đồ chơi đó là tài châm biếm ý vị của nhà thơ Yên Đỗ. Nó đem đến cho bài thơ sự đa nghĩa đầy bất ngờ đồ chơi, đồ thật, tiếng hư hư thực thực lẫn lộn khó mà phân biệt. Cười người, cười đời chưa đủ, Nguyễn Khuyến còn đem mình ra để mà cười, cười mình có tài mà luẩn quẩn mà bế tắc. Ta nhận ra trong bài thơ “Tiến sĩ giấy” chút ngậm ngùi, chua xót bởi yếu tố tự trào mà nhà thơ muốn thể hiện. Là tam nguyên, từng vinh quy bái tổ rất vẻ vang, vinh hiển nhưng vì thời thế không thể giúp được gì cho dân, cho nước, ngẫm ra mình cũng chỉ là “Tiến sĩ giấy” với danh vờ danh hảo mà thôi. Nguyễn khuyến bộc lộ một tiếng cười chua xót đến tội nghiệp. Thậm chí đã có lúc ông còn chế giễu cái bất lực, bạc nhược của chính mình một cách thẳng thắn Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng Đối với cụ Tam Nguyên lúc này bìa xanh, bảng vàng có ý nghĩa gì đâu khi bản thân không thể góp sức phò vua, giúp nước, giúp dân. Điệp từ “mình” trở đi trở lại thể hiện niềm day dứt khôn nguôi, xoáy sâu vào bản thân mình mà chế giễu, mà trào phúng bởi thấy cuộc đời mình mới đáng cười làm sao. Cười chính mình có lẽ cái cười sâu sắc nhất mà cũng xót xa nhất. Như vậy, những sáng tác trào phúng của Nguyễn Khuyến hầu như đã điểm mặt đủ mọi đối tượng, mọi hiện tượng đáng phê phán trong xã hôi nửa thực dân, nửa phong kiến đương thời. Tiếng cười Nguyến Khuyến thực sự mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Bởi lẽ, Nguyễn Khuyến làm thơ trào phúng không phải xuất phát từ nổi đau nhân thế mà xuất phát từ tấm lòng trong sạch, cao khiết của một bậc đại nho có lòng yêu nước kín đáo, thâm trầm tìm cách phản ứng lại những cái xấu xa đen bạc của thời thế. Chính nỗi đau về thời thế đã khiến tiếng cười của Nguyễn Khuyến mang đậm tình yêu nước, tâm huyết với cuộc đời. Bởi trào phúng thực chất là trữ tình mà ở đó tình yêu thương được thay bằng sự căm thù. Cụ thể ở đây, tình yêu nước, thương dân được thể hiện bằng sự ẩn giấu dưới sự phê phán cái rởm đời, lố lăng của buổi giao thời đã hủy hoại bao giá trị tinh thần tốt đẹp, quý giá cộng với sự tố cáo tội ác của bọn xâm lược vô nhân đạo. Có lẽ vì thế mà Xuân Diệu đã cho rằng “Nguyễn Khuyến dù không cầm gươm chiến đấu dưới là cờ phấn nghĩa Cần Vương vẫn đáng được xếp vào hàng những nhà thơ yêu nước”. Phải thấy rằng, tiếng cười trong thơ Nguyễn Khuyến hết sức đặc sắc nó nhẹ nhàng, thâm thúy không vang lên thành tiếng nhưng hết sức sâu cay. Với nững điều ông viết ra, người đọc càng nghĩ càng thấm thía cái dụng ý sâu sắc trong lời thơ. Trong khi đó, nhà thơ trào phúng – Tú Xương thì lại gây tiếng cười dữ dội, quyết liệt, sắc sảo đến bốp chát. Cũng nói đến cảnh nghèo, cái đạm bạc của gia cảnh, nếu Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng đùa vui trong “Bạn đến chơi nhà” thì Tú Xương lại nói thẳng, nói thật đến mức chua xót về cảnh nghèo của mình Van nợ lắm khi trào nước mắt Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi. Để giễu cợt bọn quan tham, Nguyễn Khuyến gửi gắm tâm sự đã kích trong “Hỏi thăm quan tuần mất cướp”, trong khi đó Tú Xương lại châm biếm hết sức chua cay qua việc nhắc lại lời chúc đầu năm mới của bọn quan lại với nhau Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu … Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang Đứa thời mua tước đứa mua quan … Nó lại mừng nhau cái sự giàu … Nó lại mừng nhau cái sự lắm con… Năm mới chúc nhau Sau mỗi lần nhại lại một lời chúc là thêm một lần Tú Xương có cơ hội vạch trần bộ mặt xấu xa của bọn quan lại. Chúng là một lũ tham sống, sợ chết, bản chất trơ tráo lì lợm, vô liêm sỉ thay nhau thực hiện hành vi mua quan bán tước bỉ ổi, tỏ rỏ lòng tham vô độ mà lại keo kiệt bủn xỉn vô cùng. Để rồi đến đoạn thơ kết, Tú Xương bày tỏ thái độ muốn tống khứ chúng đi bởi dưới mắt ông chúng chỉ là một lũ khỉ ngày ngày diễn trò làm rối loạn xã hội. Phố phường chật hẹp người đông đúc Bồng bế nhau lên ở núi non. Những câu thơ chẳng khác nào những ngọn roi mạnh quất thẳng vào bọn người đáng ghét ấy. Quả thật trào phúng của Tú Xương thật sắc sảo, thật bốp chát chứ không thâm trầm, kín đáo như cụ Yên Đổ. Cũng nói đến sự thay đổi theo chiều hướng đáng buồn của luân thường đạo lý, Nguyến Khuyến thể hiện một cách kín đáo qua việc miêu tả không khí vui nhộn của ngày “Hôi tây” thì Tú Xương lại đặt ngay môỵ câu hỏi lớn đối với xã hội Có đất nào như đất ấy không Phố phường tiếp giáp với bờ sông Nhà kia lỗi phép con khinh bố Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng. Đất Vị Hoàng Rồi ngay khi cùng phê phán những kỳ thi Hán học đương suy tàn, Tú Xương vẫn chửi thẳng không ngần ngại Cử nhân cậu ấm kỉ Tú tài con đô mĩ Thi thể mới là thi Ơi khỉ ơi là khỉ. Qua đó có thể thấy Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ trào phúng có phong cách rất riêng, rất nổi bật. Nhà thơ Chế Lan Viên đã khái quát được cá tính sáng tạo của hai nhà thơ này qua hai câu thơ Yên Đổ khóc dẫu cười không thể giấu Tú Xương cười như mãnh vỡ thủy tinh. Vì sao Nguyến Khuyến cười ra nước mắt như vậy trong khi Tú Xương lại cười dữ dội, sắc nhọn đến thế ? Phải thấy rằng Tú Xương và Nguyến Khuyến tuy sống cùng thời đại nhưng nếu Tú Xương sống ở chốn thành thị – nơi diễn ra rất sớm và rất tập trung lối sống lai căng, lỡm đời của buổi giao thời thì Nguyễn Khuyến quanh năm sống ở nông thôn, sau lũy tre làng với cuộc sống ở ẩn êm đềm, thanh bình. Hiện thực xã hội mà Nguyến Khuyến chứng kiến có nhiều phần ít trực tiếp hơn so với Tú Xương bởi thế sự phản ứng của Tú Xương mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Lại cùng là người có tài nhưng nếu Yến Đỗ là bậc đại nho với ba lần đỗ đầu vị thế “Tam nguyên” vẻ vang nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam thì Tú Xương lại lận đận trong thi cử với “Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, cuối cùng thi đỗ “Tú tài rốt bang”. Vì lẽ đó mà tiếng cười Nguyễn Khuyến là tiếng cười của bậc bề trên, luôn ý thức cái hơn hẳn người đời về tài, đức; nó mang giọng nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà lại rất thâm thúy, chua cay, cười mà cũng là để khóc nên không thể có giọng điệu nào khác có thể thấy sự thâm trầm, kín đáo ấy. Sự khác biệt trong phong cách trào phúng của hai nhà thơ này còn do một lẽ tất yếu trong sáng tạo nghệ thuật. Nghệ thuật là một lĩnh vực của sáng tạo, của độc đáo. Nó không bao giờ chấp nhận bất cứ sự lặp lại nào, ngay cả sự lặp lại những chân lý vĩnh hằng. Chân lý chỉ có một nhưng người nghệ sĩ có vô vàn cách khác nhau, bằng tài năng và tâm huyết của mình, để thể hiện nó. “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho” là vì vậy. Bởi thế, dù cùng vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX, cùng chứng kiến buổi giao thời lố lăng, đồi bại, lại cùng lựa chọn mảng thơ trào phúng để thể hiện thái độ của mình trước cuộc đời với Tú Xương, song Nguyễn Khuyến đã khẳng định cá tính của mình trong sáng tác. Là bậc đại nho sống cuộc sống ở ẩn, sống nhàn, tiếng cười của Nguyễn Khuyến thật ý nghĩa, thật kín đáo, thật thâm nho. Cũng nhờ sắc màu trào phúng riêng biệt ấy mà những tác phẩm cũng như tên tuổi của Nguyễn Khuyến vẫn còn ghi dấu ấn trong lòng bạn đọc bao thế hệ trong suốt hơn một thế kỷ qua và cho đến mai sau. Tóm lại, mảng thơ trào phúng đã góp phần bồi đắp nên tên tuổi, vị thế của Nguyến Khuyến trên thi đàn dân tộc. Cùng với Tú Xương nhà thơ xứ Yên Đỗ đã đạt được những thành tựu đầu tiên nhưng có giá trị vững bền trong lĩnh vực trào phúng của văn học Việt Nam. Chắc chắn rằng dù thời gian có trôi đi, lớp bụi của nó vẫn không thể làm lu mờ dấu ấn mà Nguyễn Khuyến đã khắc tạc vào tâm trí bạn đọc – dấu ấn về một nhà thơ trào phúng “khóc dẫu cười không thể dấu”. Nguyễn Thanh Liêm
Dưới đây là bài văn mẫu phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến trong chương trình Ngữ văn cấp 3. Các bạn hãy sử dụng tham khảo để bài làm văn của mình sâu sắc và sáng tạo nhé!Mở bàiChi tiết phần thân bàiLuận điểm 1 phân tích bài Thu điếuLuận điểm 2 phân tích bài Thu ẩmLuận điểm 3 phân tích bài thơ Thu vịnhPhần kết bài chi tiếtMùa thu luôn là một trong những mùa tạo nhiều cảm hứng cho các nhà thơ nhà văn sáng tác nên những tác phẩm bất hủ. Mỗi tác giả đều có những góc nhìn khác nhau về mùa thu. Phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, độc giả sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thú vị của mùa thu cũng như thấy được tài năng của tác giả. Mở bài Tác giả Nguyễn Khuyến, tên thật là Nguyễn Thắng. Ông được biết đến là một vị quan có phẩm chất thanh cao và thanh liêm, chính trực. Trong dân gian, đã có rất nhiêu gia thoại thú vị kể về sự gắn bó của nhà thơ Nguyễn Khuyến với người dân. Không chỉ là một vị quan chính trực, hết lòng vì nhân dân, Nguyễn Khuyến còn là một người có tâm hồn nhạy cảm, giàu cảm xúc luôn rộng mở và gắn bó với thiên nhiên, làng quê và quê hương đất nước. Quá trình phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, chúng ta sẽ cảm nhận rõ hơn màu sắc thu ở đồng bằng Bắc bộ. Chùm thơ thu là những bức tranh thu đặc sắc, với ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả. Chi tiết phần thân bài Luận điểm 1 phân tích bài Thu điếu Nhắc đến Nguyễn Khuyến độc giả sẽ nhớ ngay đến chùm thơ thu gồm 3 bài Thu điếu, Thu vịnh và Thu ẩm. Mỗi bài thơ là một bức tranh thu với nét đẹp duyên dáng không giống nhau. Trước hết, các bạn hãy cùng phân tích và tìm hiểu về bài thơ Thu điếu. “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo. Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Tựa gối, buông cần lâu chẳng được, Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Mở đầu bài thơ, tác giả miêu tả ao thu. Chỉ miêu tả mặt ao thôi nhưng nhà thơ đã dùng khá nhiều từ để vẽ lên. Đó là “lạnh lẽo”, “trong veo”, “sóng biếc” và “gợn tí”. Có thể thấy, những từ này đều có điểm chung là sự thể hiện sự vắng lặng, cô độc và lạnh lẽo. Đúng vậy, mùa thu tới thường mang theo không khí lạnh, khiến thời tiết hơi se lạnh. Và dường như cái lạnh của thiên nhiên cũng khiến cho lòng người cảm thấy “lạnh lẽo” hiu quạnh. Ở đây, ao thu không còn mang dáng vẻ lãng mạn, dịu dàng nữa mà choáng ngợp bởi nỗi cô độc trong lòng người. Có lẽ chính vì thế mà tác giả đã gieo vần “eo” với một loạt các tính từ xuất hiện ở các câu như “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo”, “khẽ đưa vèo”. Ở đây, để miêu tả vẻ hiu quạnh, mênh mang của bức tranh thu này, nhà thơ Nguyễn Khuyến còn sử dụng bút pháp lấy động tả tĩnh. Tác giả vẽ chiếc thuyền trôi lững lờ chậm chạm mà như không trôi, nhưng chiếc lá lại rơi xuống khẽ đưa vèo đã tạo nên sự cao trào về vẻ tĩnh lặng. Sau khi quan sát mặt nước, tác giả chuyển hướng nhìn lên không gian bầu trời và mặt đất. Và ở đâu cũng chỉ thấy một màu cô độc, hoang vắng “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” Tác giả nhìn thấy bầu trời thu xanh ngắt là chỉ có tầng mây lửng lơ, nhẹ nhàng trôi. Điều đó, tạo cảm giác lạc lõng, không biết trôi về đâu, với mục đích gì. Tầng mây ấy giống như con người cô độc đang nhìn kia, cũng đang cảm thấy côn đơn, không tìm ra lối thoát. Đến những ngõ trúc thường có bạn sang chơi nhưng hôm nay cũng vắng teo người không một ai, kể cả người xa lạ. Quá chán chường với những khung cảnh hiện tại, tác giả lại quay về với thú vui câu cá của mình “Tựa gối ôm cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo” Ở nơi mặt ao vắng lặng, nước lại trong veo thì ắt hẳn câu cá không dễ. Chính vì thế mà tác giả mới bảo là câu lâu chẳng được. Nhưng ở đây nhà thơ đặc biệt đặt hình ảnh “tựa gối ôm cần”. Điều này nhằm nhấn mạnh tâm trạng của chính nhà thơ. Nhà thơ không ung dung ngồi câu cá mà trong lòng vẫn chứa đựng trắc ẩn. Dù đã về quê ở ẩn nhưng trong lòng thi nhân vẫn cảm thấy bế tắc, buồn bã trước thời thế. Luận điểm 2 phân tích bài Thu ẩm “Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè. Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ? Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe. Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy. Độ năm ba chén đã say nhè”. Phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, độc giả không thể không nhắc đến tác phẩm “Thu ẩm”. Nếu như Thu điếu là mùa thu câu cá thì Thu ẩm là mùa thu uống rượu. Trong bài Thu ẩm này, độc giả cảm nhận hồn thu, dáng thu và tâm tư của nhà thơ. Nhà thơ giới thiệu nhà, vườn ra tới cánh động, rặng tre, ao vườn, hàng giậu, ngõ xóm. Chúng mang dáng vẻ hun hút, quanh co… Đọc những câu thơ, chúng tả cảm nhận lúc này Nguyễn Khuyến không còn là thi nhân nữa mà trở thành ông già đang khề khà chén rượu để giả sầu. Chính với cái nhìn say sưa đó mà cảnh vật biến đổi đầy thú vị và bất ngờ “Ba gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè. Bức tranh thu của tác giả hiện lên với hình ảnh ngôi nhà cỏ thấp le te. Thấp le te có nghĩa là rất đơn sơ và lụp xụp, mái tranh cũng xác xơ và rách nát. “Đã thế, lại điểm thêm những đốm sáng lập lòe của đom đóm trong ngõi tối đêm sâu, trông càng heo hút, cô quạnh “Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Bức tranh thu ẩm ấy hiện lên sau lớp sương thu mỏng phớt phơ như làn khói mỏng. Khiến cho khung cảnh trở nên thật mờ nhạt trong màu đêm chập choạng. Đặc biệt, hình ảnh ao thu ở đây không lạnh lẽo trong veo nữa mà là lóng lánh bóng trăng. Có nghĩa là bóng trăng lúc dồn lại, lúc tỏa ra liên tiếp biến dạng, trông thật thú vị nhưng cũng đong đầy cảm xúc “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, Mắt lão không vẩy cũng đỏ hoe”. Ban đêm mà thi nhân thấy bầu trời xanh ngắt, còn mắt không vầy mà cũng đỏ hoe. Thật kỳ lạ! Nhưng đó chính xác là diễn tả tâm trạng buồn bã chán chường, tìm đến rượu để giải sầu của tác giả. Chẳng thế mà thi nhân mới nói “Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy – Độ năm ba chén đã say nhè”. Không phải say túy lúy mà chỉ say nhè, say nhẹ, say rồi ngủ mà không bê tha, phá phách. Có thể thấy theo Nguyễn Khuyến, mùa thu thật hợp để có thể lè nhè đôi ba chén rượu. Luận điểm 3 phân tích bài thơ Thu vịnh Thu vịnh còn được biết đến là tác phẩm mùa thu ngồi mát ngâm thơ. “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”. Có thể thấy, mở đầu bức tranh là hình ảnh bầu trời bát ngát bao la “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” Nếu như trong Thu điếu, bầu trời có từng lớp mây lửng lỡ trôi, thì bầu trời ở Thu vịnh đã trở nên xanh thăm thẳm, mấy từng cao. Tưởng chừng như rất cao, nhiều tầng tầng lớp lớp. Giữa bầu trời bao la ấy, nổi bật lên hình ảnh một chiếc cần trúc, tức là cây trúc non non với dáng đứng cong cong đang rung rinh, lơ phơ trước gió. Thật là một cảnh tượng vừa động vừa tĩnh đầy cuốn rũ và hấp dẫn của mùa thu. “Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào” Sau khi vẽ bức tranh thu qua những chấm phá trên bầu trời, nhà thơ tiếp tục vẽ dáng thu qua những nét dưới mặt đất. Đó là nước biếc của mặt ao lờ mờ như bị một tầng khói bao phủ. Nước biếc lúc này không còn có màu xanh thông thường nữa là lẫn vào màu khói trở nên huyền ảo và mông lung. Tiếp đến là hình ảnh song thưa. Song thưa là cái cửa sổ của căn nhà, khiến khung cảnh trở nên thật bình dị khi để ánh trăng lọt vào. Có thể thấy, cảnh vật ở bốn câu thơ này, được tác giả miêu tả ở các thời điểm khác nhau. Mỗi hình ảnh mang một vẻ đẹp không giống nhau nhưng tất cả đều chưa đựng tâm trạng nỗi lòng của thi nhân. “Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không, ngỗng nước nào?” Nếu như những câu trên, nhà thơ miêu tả cảnh vật với cái nhìn khách quan thì ở đây, tác giả đã để lộ cảm xúc của bản thân. Tác giả nhìn hoa đang nở trước mắt mà lại cảm nhận thấy đó là hoa năm ngoái. Điều đó có nghĩa, tâm trạng lúc này của tác giả đang lùi về quá khứ. Để rồi bất chợ nghe thấy tiếng ngỗng nước nào. Tác giả không hiểu âm thanh ấy phát ra từ đâu, mặc dù đó là âm thanh rất quen thuộc mỗi độ thu về. “Nhân hứng cũng vừa toan cắt bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” Nhìn thấy cảnh thu đó, tác giả bỗng hứng muốn làm thơ, nhưng rồi chợt nhận ra tài thơ của mình đang kém. Ông cho rằng mình chưa đủ nhân cách và khí phashc như Đào Tiềm nên cảm thấy thẹn. Một lời thơ kết lấp lửng nhưng kín đáo, đã khiến cho bài thơ thêm chất suy tư, chiêm nghiệm. Phần kết bài chi tiết Qua việc phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, độc giả cảm nhận được vẻ đẹp muôn hình muôn vẻ của mùa thu. Mặc dù mỗi bức tranh thiên nhiên thu ấy là một vẻ khác nhau nhưng đều chất chứa những nỗi buồn mênh mang. Từ cảnh vật cho đến tâm trạng con người. Qua đó, chúng ta cũng cảm nhận được tình yêu thiên nhiên đất nước của nhà thơ. Mặc dù đã lui về ở ẩn, vui thú điền viên nhưng tận sâu trong tâm hồn thi nhân vẫn đau đáu nỗi lo vận mện của đất nước. Thông qua cảnh vật, nhà thơ muốn gửi gắm sự xót xa, tiếc nuối trước tình cảnh nước nhà đang bị giặc ngoại xâm. Qua chùm thơ cũng thấy rõ được tài năng thơ ca của tác giả. Chỉ những người có tâm hồn tinh tế mới có thể viết nên những câu thơ lay động lòng người đến vậy.
Văn thư lưu trữ mở Wikisource Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm Thu vịnh của Nguyễn KhuyếnThu vịnh vịnh mùa thu là một trong ba bài thơ Nôm về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến cùng với Thu điếu và Thu ẩm Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Nhân hứng cũng vừa toan cất bút. Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào[1]. Chú thích ▲ Tức Đào Tiềm Lấy từ “ Thể loại Thơ Việt NamThất ngôn bát cú
nhân hứng cũng vừa toan cất bút